“Bình tĩnh? Ông bảo tôi bình tĩnh cái gì?!”

Chu Tử Cẩm chỉ tay vào tôi, mắt đỏ ngầu:

“Bà ta nuôi tôi suốt mười tám năm! Mười tám năm! Giờ chỉ nói không cùng huyết thống là muốn phủi sạch sao?

Trên đời này làm gì có chuyện dễ dàng như thế!”

Cuối cùng nó cũng buột miệng nói ra sự thật trong lòng.

Có hay không có quan hệ huyết thống, vốn không quan trọng với nó.

Cái nó quan tâm là: tôi có còn là cây rút tiền của nó hay không.

Thẩm phán không thèm để tâm đến tiếng gào khóc của nó, quay sang phía tôi:

“Bị cáo, vì bà và nguyên cáo không tồn tại quan hệ nuôi dưỡng hợp pháp cũng như huyết thống, nên đơn kiện của nguyên cáo Chu Tử Cẩm về tội bỏ rơi là không có cơ sở.”

“Tòa tuyên: bác bỏ toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên cáo Chu Tử Cẩm.”

Tôi không về nhà ngay mà ngồi xuống bậc thang trước cổng tòa án.

Từ trong túi vải, tôi lấy ra bức tranh được bọc bằng giấy báo.

Trên tranh là một bé gái mặc váy, nắm tay một người phụ nữ, cùng chạy trên thảm cỏ.

Trên trời có mặt trời, có mây, và một hàng chữ xiêu vẹo: “Con và mẹ.”

Đó là bức tranh Chu Tử Cẩm vẽ năm năm tuổi.

Hôm ấy, con bé từ mẫu giáo về, hớn hở giơ tranh lên khoe với tôi: cô giáo khen nó vẽ đẹp nhất lớp.

Tôi dán bức tranh ở chỗ dễ nhìn nhất trên tường, nhìn suốt mười ba năm.

Ngón tay tôi khẽ lướt qua hình bóng nhỏ bé trong tranh, khóe mắt cay cay.

Sau lưng vang lên tiếng bước chân.

Chu Tử Cẩm đứng đó, giọng khản đặc:

“Tại sao?”

Tôi không quay đầu.

“Nếu bà không phải mẹ tôi, vậy cha mẹ ruột của tôi đâu? Họ ở đâu? Tại sao họ bỏ tôi?”

Những câu hỏi như đá ném liên tiếp vào tôi.

Tôi gấp bức tranh lại, cẩn thận bọc vào giấy báo, bỏ lại vào túi.

“Muốn biết sự thật chứ?” — tôi nhìn thẳng vào nó, bình thản hỏi.

Nó gật mạnh đầu.

“Được,” — tôi nói — “đi theo tôi.”

Tôi dẫn nó lên một chuyến xe buýt.

Chiếc xe lắc lư chạy về phía ngày càng hoang vắng.

Suốt đường, Chu Tử Cẩm không nói gì, chỉ nhìn chằm chằm vào tôi như sợ tôi đột nhiên biến mất.

Hơn một tiếng sau, chúng tôi xuống ở một nơi gọi là “Viện phúc lợi Thanh Mộc”.

Trong sân có mấy đứa trẻ đang chơi cầu trượt, thấy chúng tôi, chúng nhìn tò mò.

Mặt Chu Tử Cẩm càng lúc càng tái đi.

“Bà đưa tôi tới đây làm gì?”

Tôi không trả lời, đi thẳng vào văn phòng viện trưởng.

Viện trưởng là một bà tóc bạc, họ Lý, cả đời gắn bó với nơi này.

Thấy tôi, bà khựng lại, rồi thở dài:

“Tiểu Hòa, cuối cùng con cũng đến.”

Bà lại nhìn Chu Tử Cẩm sau lưng tôi, ánh mắt đầy phức tạp.

“Lớn thế này rồi.”

“Bà… bà quen tôi?” — Chu Tử Cẩm buột miệng hỏi.

Viện trưởng không đáp, chỉ mở ngăn kéo có khóa, lấy ra một túi hồ sơ bằng giấy bìa cũ.

Túi hồ sơ sờn góc, đã cũ nát.

Ánh mắt Chu Tử Cẩm rơi xuống dòng chữ in đậm trên tờ báo bên trong, cả người run bắn.

Đó là một tờ báo buổi tối mười chín năm trước.

Trên trang nhất, tiêu đề in chữ đen đậm:

“Rúng động toàn thành phố! Vụ án ‘Đồ tể Bờ Sông’ giết người hàng loạt đã phá – hung thủ chính là một cặp vợ chồng trẻ!”

Mặt Chu Tử Cẩm tái nhợt như tờ giấy.

Tờ báo trong tay nó rơi xuống đất, cả người mềm nhũn ngồi sụp xuống như bị rút cạn xương sống.

Tôi không đỡ.

Viện trưởng Lý thở dài, cúi người nhặt tờ báo lên, đưa lại cho nó.

Trên mặt báo là hai tấm ảnh đen trắng: một người đàn ông tên Trương Vĩ, một người phụ nữ tên Lưu Hồng.

Họ là cha mẹ ruột của Chu Tử Cẩm.

Cũng là hai kẻ gây chấn động cả thành phố mười tám năm trước với tư cách hung thủ chính của một vụ giết người hàng loạt khét tiếng.

Còn tôi, năm đó chỉ là một cô gái mới từ quê ra thành phố làm thuê, rửa bát trong quán ăn.

Tôi vĩnh viễn không thể quên đêm đông đã thay đổi cả đời mình.

Tan ca muộn, tôi lê tấm thân mệt rã về nhà trọ.

Lúc đi ngang một thùng rác, tôi nghe thấy tiếng khóc yếu ớt như mèo con.

Lần theo âm thanh, tôi tìm thấy một chiếc thùng giấy cũ nát.