Bị vu oan ngồi tù, tôi đã ở trong trại suốt năm năm.

Trong thời gian đó, tôi từng ba lần tự sát, nhưng lần nào cũng được một người chị lớn cứu về.

Chị nhìn vào đôi mắt vô hồn, chẳng còn chút ý niệm sống sót nào của tôi mà nói:
“Chị chẳng còn sống được bao lâu nữa, nhưng con gái chị thì còn nhỏ. Sau này em ra ngoài… có thể giúp chị đến nhìn nó một lần không?”

Tôi không trả lời.

Không lâu sau, chị qua đời.

Lúc chết, chị vẫn còn lẩm nhẩm gọi tên đứa con gái bảy tuổi, hối hận vì đã đưa nó đến thế giới này.

Sau đó, nhờ cải tạo tốt, tôi được tha trước nửa năm.

Trong một căn nhà gỗ tồi tàn, tôi nhìn thấy một bé gái gầy gò, lấm lem, trông thảm hại.

Nó ngẩng đầu lên, đôi mắt sáng long lanh hỏi tôi:
“Cô là ai?”

Cổ họng tôi nghẹn lại:
“Tôi là mẹ con.”
1

Hai tiếng “mẹ” khiến bé gái sững lại.

Cô bé dường như không dám tin, đứng ngơ ngác tại chỗ, bàn tay nhỏ siết chặt lấy vạt áo.

Tôi bước tới gần, chủ động nắm lấy tay cô bé, mới phát hiện bàn tay ấy chai sần dày đặc, còn có những vết sẹo do tê cóng tái phát nhiều lần để lại.

Thấy tôi nhìn chằm chằm vào tay mình, bé gái hoảng hốt rụt tay về, cẩn thận nói:
“Con đi rửa tay ngay, mẹ đừng chê con bẩn.”

Một đứa trẻ chín tuổi mà lại nói ra câu ấy, khiến lòng tôi quặn thắt.

Nói xong, con bé chạy ra bờ sông rửa tay.

Nhân đó, tôi quan sát xung quanh.

Rõ ràng đây chỉ là một cái chòi gỗ bỏ hoang, gió lùa bốn phía, trời mưa thì càng không dám tưởng tượng. Qua những khe hở trên mái, có thể thấy rõ mây trời.

Chị cả từng nói với tôi, trước khi vào tù, chị đã sắp xếp cho con gái tất cả. Chị không khai ra kẻ cầm đầu để được hưởng tám mươi ngàn, mà đem hết số tiền ấy giao cho nhà mẹ đẻ, chỉ cầu họ giúp chăm con bảy năm.

Theo tôi dò hỏi được, nhà ấy cầm tiền mua hẳn một căn hộ trong thành phố, ngoài con bé ra thì cả nhà dọn đi hết.

Những năm đầu, họ còn thỉnh thoảng sai người mang chút đồ ăn tới, nhưng dần dần, khi biết chị cả mắc bệnh nặng, chắc chắn không sống đến ngày ra tù, họ ngay cả một miếng cơm cũng chẳng buồn đưa nữa.

Cô bé sống lay lắt nhờ ăn nhờ từng nhà, thêm nhặt ve chai, tạm bợ qua ngày.

Nhìn cảnh ấy, lòng tôi ngổn ngang. Lúc gọi mình là “mẹ” chỉ là một phút bốc đồng vì thấy nó quá giống tôi năm xưa, nhưng giờ đây, tôi thật sự muốn đem nó đi.

Nghĩ vậy, tôi ra bờ sông tìm con bé.

Chòi gỗ cách sông chỉ chừng hai mươi mét, vừa bước ra cửa, tôi liền nghe tiếng mắng chửi:
“Lại ăn trộm xoài nhà tao hả, con nhỏ không cha không mẹ! Tao đánh gãy chân mày giờ!”

“Con không trộm… Ông trưởng thôn nói rõ rồi, cây xoài này là của chung, không phải nhà các người…”

Bé gái vừa tức vừa tủi, rồi như chợt nhớ ra điều gì, giọng nói lớn hơn:
“Con không phải không ai cần, mẹ con về rồi!”

Người kia bật cười khinh miệt:
“Mẹ mày chết trong tù từ lâu rồi, đồ con hoang! Mau trả xoài lại đây, lần sau còn dám lấy, tao đập nát miệng mày.”

Vừa nói, hắn vừa giật quả xoài trên tay con bé, vừa vung tay tát vào mặt nó.

Thấy vậy, tôi không nói một lời, lao tới tung ngay một cú đá.

Kể từ khi có khát vọng sống, tôi đã rèn luyện trong tù mỗi ngày, để có một thân thể khỏe mạnh, không dễ bị bắt nạt.

Người kia kêu đau một tiếng, ngã lăn ra đất, ôm lấy cái lưng già mà rên rỉ.

Tôi kéo bé gái ra sau lưng, trừng mắt nhìn hắn:
“Còn dám bắt nạt con gái tôi nữa, lần sau tôi đá không phải vào lưng mà là vào cổ ông.”

Nói xong, tôi dắt tay con bé bỏ đi.

Đi ngang qua chòi gỗ, tôi hỏi nó:
“Con có đi theo mẹ không?”

Bé gái nắm chặt tay tôi, trong lòng còn ôm hai quả xoài, một to một nhỏ, gật đầu thật mạnh.

“Được, từ nay hai mẹ con ta nương tựa vào nhau.”

Chúng tôi ngồi lên chuyến tàu xuôi Nam.

Đi đến một nơi xa lạ, để dựng xây một mái nhà của riêng mình.