Trương Thúy Hoa sững sờ:

“Cái gì? Nghiêm Châu, con điên rồi à? Cái máy khâu đó đắt lắm đó!”

“Tôi nói để cô ấy mang đi!” Giọng Cố Nghiêm Châu nặng thêm, hiếm khi dùng khẩu khí này với mẹ.

Trương Thúy Hoa bị nghẹn, tức đến trợn trắng mắt.

Thẩm Nhược Tuyết vội vàng đỡ bà ta, thì thầm an ủi, đồng thời dùng ánh mắt lo lắng xen bất lực nhìn tôi, như thể tôi vừa phạm tội tày đình.

Cố Nghiêm Châu không thèm nhìn họ nữa, anh ta bước tới, móc trong túi ra một phong bì, đưa cho tôi.

“Ở đây có ba trăm đồng, em không cần trả lại. Coi như… bù đắp cho em.”

Trong giọng anh ta, mang theo sự ban ơn đầy ngạo mạn.

Tôi nhìn phong bì ấy, bỗng bật cười.

“Bù đắp?” Tôi hỏi lại, “Đoàn trưởng Cố, anh nghĩ tôi cần sự bù đắp của anh sao?”

Tôi không nhận, mà rút từ túi mình ra ba trăm đồng đã chuẩn bị sẵn, nhét thẳng vào túi áo quân phục của anh ta.

“Đây là sính lễ. Từ nay, chúng ta không nợ nhau gì nữa.”

Nói xong, tôi không thèm liếc anh ta, cố gắng bưng chiếc máy khâu nặng nề, từng bước đi ra khỏi sân.

Thân thể tôi hãy còn yếu, mỗi bước đi bụng đều nhói lên như bị xé toạc.

Nhưng tôi nghiến răng, không rên một tiếng.

Lưng tôi vẫn thẳng tắp.

Cố Nghiêm Châu đứng nguyên tại chỗ, ánh mắt dõi theo bóng lưng tôi, nhìn xấp tiền nhăn nhúm nhét trong túi áo mình.

Trên gương mặt anh ta thoáng hiện thứ cảm xúc phức tạp mà trước nay tôi chưa từng thấy.

3

Tôi kéo theo chiếc máy khâu cùng một túi hành lý, bước ra khỏi khu tập thể quân khu.

Sau lưng là tiếng cười đắc ý của Trương Thúy Hoa và những lời xì xào bàn tán của hàng xóm.

Tôi không hề ngoái lại.

Nơi này chất chứa quá nhiều đau khổ và nước mắt của kiếp trước, tôi không muốn nhìn thêm một lần nào nữa.

Ở trấn trên, tôi tìm một nhà nghỉ rẻ nhất để ở tạm, một ngày một đồng.

Phòng nhỏ xíu, chỉ có một chiếc giường và một cái bàn, nhưng tôi lại thấy chưa bao giờ nhẹ nhõm đến vậy.

Nằm trên chiếc giường gỗ ọp ẹp kẽo kẹt, tôi bắt đầu tính toán con đường sắp tới.

Giờ là năm 1975, còn hai năm nữa mới khôi phục kỳ thi đại học, và chỉ vài năm nữa làn gió cải cách mở cửa sẽ thổi khắp đất nước.

Đây là một thời đại đầy cơ hội.

Kiếp trước vì Cố Nghiêm Châu, tôi bị nhốt trong cái sân nhỏ ấy, để lãng phí hết tài năng và tay nghề của mình.

Từ nhỏ tôi đã theo mẹ học may vá. Mẹ tôi là thợ may nổi tiếng khắp mười dặm tám làng. Mười sáu tuổi tôi đã có thể tự may một bộ đồ Trung Sơn chỉnh tề cho người khác.

Kiếp này, tôi tuyệt đối không thể lãng phí nữa.

Tôi phải dựa vào tay nghề của mình để sống, và sống tốt hơn bất kỳ ai.

Về tiền…

Tôi lộn túi ra, chỉ còn lại vài đồng bạc lẻ.

Ba trăm đồng vừa trả lại cho Cố Nghiêm Châu, thực ra là ngày đầu tiên sống lại, tôi đã lén mang đôi khuyên tai vàng mẹ để lại đi cầm mà đổi lấy.

Đó là di vật duy nhất của mẹ.

Nỗi đau nhói lên trong tim, nhưng tôi nhanh chóng ép nó xuống.

Mẹ, mẹ yên tâm, con nhất định sẽ chuộc lại đôi khuyên ấy.

Điều cấp bách bây giờ là kiếm tiền.

Tôi mang theo chiếc máy khâu quý giá, đi thẳng tới cửa hàng bách hóa quốc doanh lớn nhất trấn.

Thời buổi này, quần áo may sẵn ít mẫu mã, lại lỗi thời. Những cô gái có chút gu đều thích mua vải rồi tự may, hoặc tìm thợ may.

Quầy vải trong bách hóa lúc nào cũng đông nghịt người.

Tôi tìm đến người phụ trách quầy, một chị mập chừng ngoài bốn mươi.

“Chị à, em tên Lâm Uyển, em là thợ may.” Tôi mở lời thẳng thắn.

Chị ta nhìn tôi từ trên xuống, ánh mắt mang chút dò xét: “Cô bé, có chuyện gì?”

“Em muốn hợp tác với chị.” Tôi chỉ vào mấy bộ quần áo mẫu treo trong tủ kính. “Mẫu ở đây cũ quá rồi. Em có thể giúp làm mẫu mới treo ở đây. Hễ có ai thích mẫu em may, tới mua vải ở cửa hàng, tiền công may chúng ta chia ba – bảy, em bảy, chị ba.”

Lời đề nghị này, vào thời ấy, táo bạo vô cùng.