Thành thân bảy năm, người trong lòng của Tạ Lâm đã hòa ly.

Hắn nói ta không nên tiếp tục chiếm giữ vị trí vốn không thuộc về mình, muốn cùng ta hòa ly.

Ngay cả con trai bảy tuổi của ta, Tạ Hành Chu, cũng nhảy dựng lên, vỗ tay lia lịa:

“Hay quá! Sau này Dao Quang tỷ tỷ sẽ là nương của con rồi!”

Tạ Lâm thấy ta trầm mặc, liền nhíu mày, ánh mắt mang theo vẻ mất kiên nhẫn:

“Nếu ngươi không chịu hòa ly thì…”

Ta đáp ứng hòa ly, chỉ nói: muốn mang theo một người.

“Hừ, ngươi muốn mang theo Hành Chu, ta sẽ hòa…”

Lời còn chưa dứt, Tạ Hành Chu đã bước lên, hung hăng đẩy mạnh ta một cái:

“Ngươi cút đi! Ta không cần ngươi làm nương, cũng không muốn đi cùng ngươi!”

Ta đứng dậy, phủi nhẹ bụi bặm trên người, không thèm để ý đến nó:

“Ta muốn mang theo Dư ma ma.”

1

Tạ Lâm trầm mặc, hắn không ngờ ta lại buông bỏ dứt khoát như vậy.

Dù sao năm đó, ta đã dùng hết tâm cơ, không từ thủ đoạn mới có thể gả cho hắn, hại hắn phụ bạc người trong lòng – Lâm Dao Quang.

Vì thế, hắn hận ta suốt bao năm.

Ta lại gian nan đến thế, chín sống một chết mới sinh hạ được Tạ Hành Chu, hắn biết ta đau đứa trẻ này đến nhường nào, xem nó như sinh mệnh.

Ta sao có thể dễ dàng hòa ly?

Lông mày hắn cau chặt, khi nhìn ta, trong mắt lại là sự mất kiên nhẫn và chán ghét quen thuộc.

Hắn tưởng ta lại đang dùng chiêu lùi một bước để tiến hai bước.

“Ngươi đừng có bây giờ đồng ý, rồi lại giở trò mưu mô.”

“Sẽ không, ký xong giấy hòa ly, ta sẽ rời khỏi kinh thành.”

“Ngươi tốt nhất nên làm được!”

Thấy ta ký xong giấy hòa ly, lão phu nhân phủ Ninh Quốc cau mày:

“Nếu ngươi không muốn về nhà mẹ đẻ, ở lại phủ làm một thị thiếp cũng không phải không thể.”

Ta hiểu rõ, năm xưa ta học được phương pháp châm cứu điều tức từ sách cổ, bao năm nay sau khi ta vào phủ, chứng đau đầu của lão phu nhân chưa từng tái phát.

Bà không phải lo ta không có nơi nương thân, mà là sợ bệnh cũ tái phát mà thôi.

Tạ Lâm nghe vậy do dự một chút, nhưng không lên tiếng phản bác.

Tạ Hành Chu lại không bằng lòng, vội vàng mở miệng:

“Phụ thân, không được đâu! Dao Quang tỷ tỷ trong mắt không dung nổi hạt cát!”

Trong lòng ta bi ai, cuối cùng lại chỉ còn lại tĩnh lặng.

Trước khi Tạ Hành Chu tròn ba tuổi là do ta đích thân nuôi dạy, ta vẫn còn nhớ rõ, đứa bé buộc hai búi tóc nhỏ từng gọi ta là nương bằng giọng sữa non nớt, mỗi khi nó sinh bệnh, ta đều mong mình có thể thay nó chịu đau, thường xuyên thức trắng đêm chăm sóc.

Nhưng kể từ khi đầy ba tuổi được bế đến nuôi dưỡng dưới gối lão phu nhân, nó dần dần không còn thân thiết với ta nữa.

Tiểu cô bên chồng, Tạ Vân Kiều, cũng đứng bên cạnh hùa theo:

“Đúng thế, tổ mẫu, nàng ta hưởng phúc nhiều năm như vậy rồi, sớm nên đi thôi.”

Ta cười tự giễu:

“Ta sẽ rời khỏi kinh thành.”

Hồi đó ta không có nhiều hồi môn, vì mẫu thân ta không vui khi ta dùng thủ đoạn bẩn thỉu gả vào phủ Quốc Công, chỉ cho ta ba cửa hàng.

Ta bán hết ba cửa hàng đó, đổi được năm trăm lượng ngân phiếu.

“Của hồi môn đó sau này đều để lại cho biểu muội ngươi làm vốn, ngươi cũng đừng trách mẫu thân thiên vị, ngươi đã gả vào phủ Quốc Công, sau này sẽ không lo ăn mặc, nhớ giữ mồm giữ miệng, chớ gây hoạ cho Tô phủ.

“Nếu bị phu quân bỏ, thì lấy một dải lụa trắng tự kết liễu là được rồi.”

Ký ức quay về, ta không định về lại Tô phủ, cũng không định tìm chết, ta chỉ muốn cùng Dư ma ma đi ngắm cảnh Giang Nam.

Từ nay về sau, mọi chuyện nơi kinh thành, không còn liên quan gì đến ta nữa.

Ta không có nhiều hành lý, khâu năm trăm lượng ngân phiếu vào áo lót, giữ lại hơn mười lượng bạc vụn, mang theo một túi nhỏ.

Ngoài của hồi môn, ta không mang theo bất cứ thứ gì của phủ Quốc Công, lúc ra cửa, Tạ Vân Kiều còn soi mói nhìn ta chằm chằm, sợ ta lấy đi vật gì của phủ.

Rời khỏi phủ Quốc Công, ta dẫn Dư ma ma thuê tiêu sư, mua một chiếc xe ngựa, thẳng đường đi về phương nam.

Đi suốt ba ngày bốn đêm, cuối cùng đến được thủy trấn Giang Nam.

Tường trắng ngói xám, thuyền xuôi theo dòng, khói bếp lượn lờ, mưa phùn giăng mắc.

Bước xuống xe ngựa, nhìn thấy phong cảnh như tranh thuỷ mặc trước mắt, bao nhiêu phiền muộn trong lòng tích tụ bao năm lập tức tan biến, ngực nhẹ bẫng như trút được gánh nặng.

Dư ma ma đã lệ rưng rưng.

Năm đó mất mùa, bà bị phụ thân ta bán cho kẻ buôn người với giá năm lượng bạc, lưu lạc khắp nơi mới tới được kinh thành, không ngờ đến cuối đời còn có thể trở về quê nhà.

Ta lấy khăn tay lau khô nước mắt cho bà.

Khi quay lại làng cũ của Dư ma ma, mới phát hiện trong làng đã chẳng còn ai quen biết, cảnh còn mà người đã khác.

Ta và Dư ma ma dùng tám mươi lượng mua một căn viện nhỏ trong trấn, mở một quầy bán hoành thánh ở đầu chợ, trong sân trồng rất nhiều hoa tường vi mà ta thích.

Mỗi ngày mặt trời mọc thì làm việc, mặt trời lặn thì nghỉ ngơi.

Cuộc sống cứ thế nhẹ nhàng trôi qua, lại khiến ta cảm thấy mãn nguyện chưa từng có, là sự tự do mà hơn hai mươi năm qua ta chưa từng được hưởng.

Ở đây không ai biết ta là ai, không ai chỉ trỏ sau lưng, không cần sáng tối thỉnh an, không phải nhìn sắc mặt ai mà sống.

Cho đến một ngày nọ, lúc thu dọn quán, một tiểu ăn mày khoảng bảy tám tuổi, áo quần rách rưới, gầy yếu vàng vọt, đói lả ngất xỉu trước quán ta.

Ta cõng nó về nhà, nó nhẹ như một con mèo gầy.

Dư ma ma bưng nước đến, ta giúp nó rửa tay, lau mặt sạch sẽ.

Nhìn nó, ta không khỏi sinh lòng thương xót, đứa nhỏ này dung mạo đoan chính, không biết nhà gặp biến cố gì mà lại lưu lạc đến mức này.

Sau khi tỉnh lại, ta bưng cho nó một bát hoành thánh thịt tươi, nó đói đến mức ăn như hổ đói, ăn đến cuối cùng, nước mắt to như hạt đậu rơi lã chã vào trong bát.

Ăn xong, nó “phịch” một tiếng quỳ xuống trước mặt ta và Dư ma ma:

“Thím ơi, bà ơi, nhà mình còn thiếu người hầu không ạ? Có thể thu nhận con được không? Con biết làm việc, không sợ khổ cũng không sợ mệt, việc gì cũng làm được.”

Ta và Dư ma ma đều sửng sốt.

Từ miệng đứa trẻ, ta biết được năm ngoái trời tuyết lớn, cha mẹ nó không may mắc bệnh lạnh mà qua đời, chỉ còn lại mình nó.