Sau lưng là tiếng Vương Kim Phượng rít lên chửi rủa, là tiếng Lý Kiến Quốc nổi đóa gào hét.

Tất cả… chẳng còn liên quan gì đến tôi nữa.

Về đến nhà mẹ đẻ, sau vài ngày bình yên ngắn ngủi, hiện thực đã bày ngay ra trước mắt.

Anh chị dâu tuy không nói gì, nhưng đột nhiên có thêm một “cô em ly dị chồng” trong nhà, bầu không khí bỗng trở nên tế nhị khác thường. Mấy đứa cháu thì nhìn tôi với ánh mắt tò mò và dò xét.

Tin đồn trong làng thì như nước lũ, không sao ngăn nổi.

“Vệ Lan thật sự ly dị rồi à?”

“Nghe nói bắt gian tại trận đấy, tặc tặc, Lý Kiến Quốc với cô Lâm trí thức kia…”

“Phụ nữ ly dị rồi, sau này biết làm sao đây?”

“Còn làm gì nữa? Tiếng xấu đồn xa, ai còn muốn lấy nữa?”

Những lời này, ít nhiều vẫn lọt vào tai tôi.

Mẹ tôi giấu tôi mà lau nước mắt, còn bố thì hút thuốc lào càng lúc càng mạnh.

Tôi nhốt mình trong phòng hai ngày.

Không phải để khóc, mà để tính toán.

Khóc cũng chẳng ích gì. Tôi phải sống tiếp, hơn nữa phải sống ra hồn, sống cho những kẻ chờ xem tôi gục ngã phải trợn tròn mắt mà nhìn!

Tôi có gì trong tay?

Sức lực? Có đấy, nhưng làm ruộng đổi công điểm thì cùng lắm cũng chỉ đủ sống, cả đời chẳng ngóc đầu lên nổi.

Tay nghề? Tôi sực nhớ ra! Tôi giỏi may vá! Trước khi lấy chồng, quần áo tôi may từng được các cô gái trong làng khen nức nở, còn từng lén học cắt may mấy tháng với một ông thợ già ở làng bên!

Đúng rồi! Phải dựa vào đó mà tính đường!

Đầu những năm 80, luồng gió cải cách bắt đầu thổi tới cái vùng quê nghèo của chúng tôi. Trên trấn đã bắt đầu có người lén lút bày sạp, bán mấy thứ kim chỉ, đồ nông sản.

Tôi tìm đến bố mẹ, nói rõ ý định: “Bố, mẹ, con muốn lên trấn dựng sạp vá đồ, thử may ít quần áo bán xem sao.”

Bố mẹ nhìn nhau, lộ vẻ lo lắng: “Lan à, cái này… được không? Phụ nữ ra mặt ngoài… không hay…”

“Bố, mẹ,” tôi nhìn thẳng họ, ánh mắt kiên cường, “Con đã ly hôn một lần rồi, còn sợ cái gì ra mặt nữa? Giờ chính sách đã nới, phải thử chứ! Con không thể ở nhà ăn cơm không, con phải tự nuôi thân, phải ngẩng đầu sống cho ra con người!”

Thấy tôi kiên định, bố mẹ đành thở dài rồi gật đầu.

Bố tôi rút từ dưới hòm ra tờ tiền hai mươi đồng vẫn để dành mua phân bón, nhét vào tay tôi: “Cầm lấy, làm vốn. Không đủ… Bố lại nghĩ cách.”

Dưới đây là phiên bản đã thay toàn bộ từ “cha” thành “bố”, giữ nguyên các định dạng khác:

Mũi tôi cay xè, siết chặt tờ hai mươi đồng còn vương hơi ấm: “Bố, mẹ, số tiền này… sau này con nhất định trả lại gấp mười!”

Hôm sau, trời chưa sáng tôi đã dậy.

Tôi mang theo hai mươi đồng kia, thêm bảo bối của mình – chiếc đồng hồ Thượng Hải hồi môn bố mẹ cho (lúc cần có thể bán lấy tiền), cộng với ba mươi bảy đồng tám hào tiền riêng, lên chuyến xe khách đi huyện.

Đầu tiên là ghé hợp tác xã mua vải.

Bây giờ phiếu vải chưa hẳn bị hủy, nhưng giao dịch ngầm thì không thiếu.

Tôi tính toán kỹ lưỡng, chọn mua vài tấm vải polyester màu tươi sáng, giá vừa túi tiền, rồi mua thêm kim chỉ, đê, phấn vẽ, thước dây.

Tiếp đó, tôi đến thẳng hiệu sách duy nhất của huyện.

Trong một góc nhỏ, tôi mừng rỡ phát hiện vài cuốn sách dạy cắt may!

Dù đã cũ kỹ, nhưng đối với một kẻ học lỏm như tôi thì đúng là kho báu!

Tôi cắn răng bỏ ra một đồng rưỡi, chọn một cuốn cơ bản nhất mua về.

Về đến nhà là tôi vùi đầu vào nghiên cứu.

Ban ngày ngồi trong phòng đo vẽ, cắt vải, buổi tối ngồi dưới ánh đèn dầu khâu vá.

Ngón tay bị kim đâm đến thủng không biết bao lần, mắt đỏ hoe vì thức đêm.

Mẹ tôi xót ruột: “Lan à, nghỉ chút đi con, gấp gì đâu.”

“Mẹ, con không mệt.” Tôi không ngẩng đầu, “Thời gian là tiền bạc.”

Nửa tháng sau, đợt “tác phẩm” đầu tiên của tôi ra đời.

Ba chiếc váy liền thân bằng vải polyester, làm theo kiểu mẫu đơn giản nhất trong sách.

Một cái màu hồng nước, một cái vàng nhạt, một cái xanh da trời.

Còn có vài bộ quần yếm và áo nhỏ cho trẻ em.

Kiểu dáng không gọi là thời thượng, nhưng tôi làm rất tỉ mỉ, mũi kim đều tăm tắp, ủi phẳng phiu sạch sẽ.

Chọn đúng ngày phiên chợ ở thị trấn, tôi mượn chiếc xe đạp cà tàng của bố, chở theo “hàng hóa”, một chiếc ghế con, một tấm chiếu cũ, hồi hộp mà đầy hy vọng đến chợ phiên.

Tôi chọn một góc vắng, trải chiếu ra, từng món quần áo được treo lên (dùng cây tre làm giá), rồi gấp gọn gàng bày ra.

Bên cạnh tôi còn dựng tấm bìa cứng ghi: “Khâu vá – sửa đồ – may theo mẫu”.

Ban đầu, chẳng ai buồn ghé lại.

Người đi chợ tấp nập qua lại, cùng lắm là liếc một cái rồi đi luôn.