Cả đời mẹ chồng hãnh diện nhất là có con trai làm trưởng thôn.

Vì sĩ diện “trưởng thôn”, bà ta mặt nặng mày nhẹ, miễn cưỡng bưng ra bát cháo bột ngô nấu rau dại.

Đường Xuân Bình vốn quen ăn ngon, thấy trước mặt thứ giống thức ăn cho heo, vừa ăn vừa khóc.

Tô Hồng Cường mất hết thể diện, nhỏ giọng trách:
“Mẹ! Sao mẹ cho nữ trí thức ăn cái này?”

“Nữ trí thức là khách, ít nhất mẹ cũng nên nấu cho cô ấy bát mì sợi hay trứng gà đường đỏ chứ.”

Nghe vậy, mẹ chồng lập tức nhảy dựng lên:
“Trứng gà đường đỏ? Mì sợi trắng? Nói thì hay lắm! Anh tự vào bếp mà xem, trong nhà còn quả trứng nào không?

Mẹ anh đây còn chưa được ăn mì trắng, thế mà để con hồ ly bên ngoài được ăn à?”

Tô Hồng Cường bị mẹ chửi đến đỏ bừng cả mặt.

Sáng sớm hôm sau, tôi chặn hắn ngay ở sân, trước khi hắn đi đến văn phòng thôn.

“Đi thôi, cùng tôi lên công xã, làm cho xong giấy ly hôn.”

12

Tô Hồng Cường còn định giả vờ ngu tiếp, nhưng kiếp này tôi tuyệt đối không dung túng nữa, lập tức xoay người bỏ đi.

“Anh không đi, tôi sẽ lên công xã tìm lãnh đạo, kể rõ từng chuyện anh đã làm cho ra nhẽ!”

Thời buổi này, ly hôn ở công xã vốn hiếm, chúng tôi không cần xếp hàng, là người đầu tiên đã làm xong thủ tục.

Bước ra khỏi công xã, Tô Hồng Cường lạnh lùng cười, nhìn tôi châm chọc:
“Động một tí là đòi ly hôn! Giờ thì hay rồi, thật sự ly hôn rồi. Tôi muốn xem xem, nhà mẹ đẻ không thể về, bà còn có thể đi đâu?”

Tôi nhổ toẹt một cái, hằn học đáp:
“Tô Hồng Cường, kiếp này tôi có phải đi ăn mày, cũng không thèm đứng trước cửa nhà anh!”

Ba ngày sau, tôi theo đại đội, tới công trường thi công quốc lộ 312.

Gọi là công trường, nhưng thực ra chỉ là một bãi đất hoang rộng lớn.

Chúng tôi – đám công nhân làm đường – sống trong những túp lều dựng bằng lau sậy, ăn cháo bột ngô và bánh ngô tạp hạt.

Điều kiện kham khổ, nhưng tôi lại hăng hái vô cùng.

Tôi hiểu, sau khi quốc lộ này hoàn thành, trong mấy chục năm sau, đất nước sẽ còn xây nhiều con đường nữa.

Sẽ cần đến vô số công nhân như chúng tôi – những người có thể chịu khổ.

Tô Hồng Cường từng nói đúng một câu: tôi không có học vấn, chỉ có thể liều mạng mà làm.

Thế nên, khi người khác bảy giờ mới đến, tôi sáu giờ đã có mặt.

Nhanh chóng, lãnh đạo công trường đều biết trong đội có một “nữ hán tử liều mạng” làm việc siêng năng nổi bật.

Cơm công trường tệ, tôi tranh thủ giờ nghỉ, đem bánh quy phát cho công nhân đi đổi với dân địa phương lấy rau, muối dưa, để cả lãnh đạo lẫn đồng nghiệp có thêm thức ăn đưa cơm.

Lúc mới đến, một số công nhân thấy tôi là phụ nữ, còn trêu chọc bằng mấy câu tục tĩu.

Nhưng sau một thời gian, hiểu rõ con người tôi, họ coi tôi như em gái ruột.

Đến lúc ấy, tôi mới nhận ra – hoá ra sau khi trọng sinh, tôi mới chỉ hai mươi mấy tuổi, đúng độ thanh xuân rực rỡ của một người phụ nữ!

Nghe tin tôi đã ly hôn, cũng có vài công nhân độc thân muốn theo đuổi, nhưng tôi đều từ chối.

Kiếp này, tôi nhất định phải kiếm cho mình một “cái bát sắt” – một công việc ổn định nuôi sống bản thân, để nhà họ Tô biết rằng, không cần Tô Hồng Cường, tôi vẫn có thể sống tốt.

Thoắt cái, đã đến cuối năm, công trường cho nghỉ Tết, công nhân lần lượt về quê.

Tôi chẳng có chỗ nào để về, liền xin ở lại công trường trực ban.

Tết trực ban không những được ăn lo, mỗi ngày còn có thêm ba hào tiền phụ cấp.

Nghĩ đến những cái Tết trước ở nhà họ Tô, Tô Hồng Cường thường mời cả đám người đến nhà ăn uống.

Tôi vất vả bếp núc, khẩu phần chẳng đủ, hắn còn trách tôi keo kiệt, nấu cơm không chịu bỏ thêm gạo.

Đổi lấy chỉ là một thân đầy oán trách – chứ đừng nói gì đến ba hào tiền phụ cấp!

Càng nghĩ càng thấy không đáng!

Giờ thì khác rồi, ở lại công trường, ngày chỉ nấu ba phần cơm.

Hai người trực cùng cũng không nỡ để tôi một mình, một người đi nhặt củi, một người bẫy thỏ.

Đến Tết, lãnh đạo còn đến thăm, cho chúng tôi một miếng thịt lợn và một bao bột mỳ trắng.

Đêm ba mươi, ba chúng tôi băm thịt, gói sủi cảo, cùng nhau đón một cái Tết náo nhiệt.

Trong khi tôi an nhàn trực ban ở công trường, thì nhà họ Tô lại chẳng được yên ổn.
ĐỌC TIẾP: https://vivutruyen.net/toi-la-vo-truong-thon-khong-phai-no-le/chuong-6