Lý Phụng Tiêu đứng chắn đường đến Thượng Y Cục, nhắc nhở:

“Nhị tiểu thư nhà họ Bạch, hãy sớm quay lại yến tiệc, chốn hoàng cung, chớ nên tùy ý đi lại.”

Ta cúi mình đáp lễ:

“Thần nữ tuân lệnh, cáo từ.”

Đi đến khúc ngoặt nơi cung tường, từ khóe mắt, ta trông thấy Lý Phụng Tiêu vẫn dõi theo hướng ta rời đi.

Ta lập tức thu ánh nhìn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn tâm, chẳng dám sinh ra một tia tâm tư dư thừa.

Đi thêm một đoạn, bờ vai Vân Tú mới chùng xuống, nàng lau đi mồ hôi lạnh trên trán, thấp giọng nói:

“Thật sự là… vị vương gia Bắc Thượng này đúng như lời đồn, chỉ riêng ánh mắt đã đủ khiến người ta chân mềm nhũn.”

Lòng ta hỗn độn trăm mối, trầm giọng hỏi:

“Tranh chân dung của ta, ngươi đã đổi được chưa?”

Bởi vì ta là tỷ tỷ của Bạch Ninh Sương, nếu ta chưa thành thân mà nàng đã đàm hôn sự, ắt sẽ bị người đời nghị luận. Do đó, trong những bức họa trình lên thái tử, hoàn toàn không có nàng.

Nữ quan Thượng Y Cục là học trò của phụ thân ta, ta dự định để Vân Tú cầm ngọc bội của ta, tìm nàng ấy đổi tranh chân dung của ta thành tranh của Bạch Ninh Sương.

Vân Tú từ trong tay áo lấy ra một cuộn tranh đã thấm ướt mồ hôi, sốt ruột lắc đầu:

“Còn chưa kịp bước vào cửa Thượng Y Cục, đã bị vương gia chặn lại.”

Ta lập tức đẩy nhẹ tay nàng:

“Mau thu lại, chớ để người ngoài nhìn thấy.”

Đời này ta không có ký ức của đời trước, nên có nhiều chuyện ta cần phải xác nhận.

Ta hạ giọng hỏi:

“Vân Tú, ngươi thấy, quan hệ giữa ta và thái tử như thế nào?”

Vân Tú vội giấu tranh vào trong tay áo, có chút hoảng loạn nói:

“Nô tỳ không dám tùy tiện nghị luận chuyện của tiểu thư và thái tử.”

Lòng ta nóng như lửa đốt, nghiêm giọng:

“Cứ nói đi, ta miễn tội cho ngươi.”

Vân Tú chau mày, trầm ngâm một lát rồi đáp:

“Tiểu thư và thái tử là thanh mai trúc mã, tình nghĩa thâm sâu, cả kinh thành đều nói hai người chính là một đôi bích nhân trời sinh một cặp.”

Trời sinh một cặp? Trời đánh một đôi thì có!

Đầu ta ong ong, đây quả thực là tuyệt lộ.

Đời này, có những chuyện đã đổi thay, có những chuyện vẫn y nguyên như cũ, cho đến trước khi ta trùng sinh, vẫn là bước theo vết xe đổ của kiếp trước—ta vẫn còn yêu Lý Huyền Dẫn.

Ta hít sâu một hơi, buông tiếng thở dài:

“Giả cả thôi, ta không còn thích thái tử nữa.”

Tĩnh tâm suy ngẫm, kiếp trước mỗi lần Lý Huyền Dẫn tặng quà cho ta, cùng ta du ngoạn, đều khiến khắp kinh thành đều biết, giống như cố tình tuyên cáo với thiên hạ rằng ta là người của hắn, khiến không ai dám đến cầu thân với phụ thân ta.

Khi đó, ta tuổi còn nhỏ, chẳng hiểu thế sự, dễ dàng bị sự ân cần ôn nhu của hắn mê hoặc.

Từ đầu đến cuối, Lý Huyền Dẫn tiếp cận ta vốn đã ôm toan tính.

Lúc này, hẳn bức họa của ta đã đến tay hắn, nếu muốn phá hỏng hôn sự này, tất phải nghĩ cách khác.

Vân Tú không hiểu, nhưng vẫn gật đầu đáp:

“Nô tỳ hiểu rồi, từ nay về sau ắt sẽ thận trọng lời nói.”

Kiếp trước, không lâu sau thưởng hoa yến, thánh chỉ tứ hôn liền truyền đến phủ, thời gian để ta cân nhắc không còn bao nhiêu.

Mong rằng lần này còn kịp.

3

Tiệc tàn, ta không chút trì hoãn, lập tức hồi phủ Thái phó.

Đứng trước cửa phủ, nhìn lên tấm hoành phi phản chiếu ánh tà dương, ta khẽ nheo mắt, trong tầm nhìn mơ hồ, quá khứ bi thương ngắn ngủi ấy như thể chỉ là một giấc hoàng lương trên đường đi thưởng hoa yến.

Mộng tỉnh rồi, mọi người đều còn sống.

Nhưng cơn đau do rượu độc thấu ruột gan, dẫu có rơi vào mười tám tầng địa ngục cũng chẳng thể nào quên.

Thảm cảnh người thân bị tàn sát, gia tộc bị tru diệt, cũng là cơn ác mộng vĩnh viễn bám lấy ta.

Tất cả những điều ấy đều đang nói cho ta biết, đó không phải một giấc mộng, ta thực sự đã chết một lần.

“Con gái, về rồi sao không vào phủ?”

Ta thu lại ánh nhìn, thấy từ sau bức bình phong, một người xách vạt áo vội vã chạy ra, nước mắt bỗng chốc dâng đầy hốc mắt.

Cổ họng nghẹn ngào, ta cất giọng run rẩy:

“Phụ thân.”

Phụ thân ta chỉ vào ta, vẻ mặt kinh ngạc nói với quản gia bên cạnh:

“Hôm nay không gọi ta là lão đầu nữa, ngươi xem, ra ngoài một chuyến mà như biến thành người khác vậy!”

Mẫu thân ta mất khi sinh ta, phụ thân lo sợ mẹ kế sẽ đối xử bạc bẽo với ta, nên từ đó về sau chưa từng tục huyền.

Từ nhỏ ta lớn lên bên vú nuôi, phụ thân bận bịu chính vụ, ít khi chăm sóc ta, ta đôi khi còn cảm thấy, so với ta, người dường như còn quan tâm đến học trò của mình hơn.

Ta đối với người vẫn luôn mang tâm tư oán trách, rất hiếm khi gọi người một tiếng “phụ thân”.

Mãi đến khi đọc di thư người lưu lại, ta mới hiểu, Bạch gia không có con trai, phụ thân sợ sau này người mất đi, ta sẽ đơn độc bị người đời khi dễ, nên vẫn luôn dốc sức gây dựng gia nghiệp, vun vén nhân mạch cho ta.

Người cả đời ít khi quan tâm ta, nhưng trong lòng luôn ôm nỗi hổ thẹn.

Nhân gian xoay vần bao kiếp, những oán giận khi xưa, dưới lằn ranh sinh tử, bỗng trở nên chẳng đáng nhắc tới nữa.

Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn phụng dưỡng mà song thân chẳng còn—đó là một trong những điều ta hối hận nhất đời.

Bạch Khiêm Trung bước xuống bậc thềm, thấy ta nước mắt lưng tròng, liền hoảng hốt:

“Con gái, ai khi dễ con rồi? Nói cho ta biết, ta đi đòi lại công bằng cho con!”

Ta lao vào lòng người, úp mặt vào ngực áo, giọng nghẹn ngào:

“Không ai bắt nạt con cả, con chỉ muốn gọi một tiếng phụ thân thôi.”

Bạch Khiêm Trung vuốt nhẹ tóc ta, thở dài:

“Con là nữ nhi của ta, con có tâm sự, lẽ nào ta không nhận ra? Chúng ta tiểu thư nhà họ Bạch, lại có chuyện gì không vui rồi?”

Ta rời khỏi vòng tay người, lau đi giọt lệ nơi khóe mắt, cười đáp:

“Hôm nay thấy phụ thân tóc mai đã điểm sương, bỗng cảm thấy trước kia mình quá mức ấu trĩ, con cũng nên trưởng thành rồi.”

Đời này ta chẳng cầu gì nhiều, chỉ mong những người quan tâm ta, đối tốt với ta, đều có thể bình an suôn sẻ.

Không có gì quan trọng hơn việc còn sống.

Bạch Khiêm Trung cười, những nếp nhăn nơi khóe mắt chồng chất ba lớp, người xoa đầu ta, cất giọng hiền hòa:

“Ta chỉ mong con vui vẻ, có ta đây, con cứ thong thả trưởng thành cũng chẳng muộn.”

Lúc vào phủ, ta nghe thấy phụ thân hỏi quản gia:

“Ta trông có già lắm không?”

Quản gia khẽ an ủi:

“Lão gia mới bước qua tuổi bốn mươi, chính là lúc oai phong lẫm liệt, một chút cũng không già.”

Bạch Khiêm Trung vuốt chòm râu, thẳng lưng mà rằng:

“Ta cũng thấy mình còn rất cường tráng, vẫn chưa thấy tiểu thư nhà ta xuất giá, sao có thể già được?”

Nghe phụ thân nhắc đến chuyện thành thân, hôn sự kia tựa một khối đá đè nặng trong lòng ta, ta nhất định phải nghĩ ra đối sách vẹn toàn, không thể liên lụy đến Bạch gia.

Dùng bữa tối xong, Vân Tú bưng đến một bát cháo đậu đỏ.

Ta nhẹ khuấy thìa, hồi tưởng cảnh tượng ban ngày trong hoàng cung, chợt nhíu mày hỏi:

“Vì sao Bắc Thượng Vương lại bạc đầu khi tuổi còn trẻ?”

Vân Tú đứng bên cạnh, ngạc nhiên đáp:

“Tiểu thư quên rồi sao? Hai năm trước, Bắc Thượng Vương mắc trọng bệnh, hôn mê nhiều ngày, Viện phán Mạnh của Thái y viện dốc hết dược liệu quý giá để cứu người, nửa tháng sau, bệnh tình thuyên giảm, nhưng khi xuất hiện trước mặt mọi người, tóc đã nửa đen nửa trắng.”

Ta khẽ day huyệt thái dương, tìm một cái cớ mà nói:

“Gần đây nghỉ ngơi không tốt, tinh thần hoảng hốt, rất nhiều chuyện đều chẳng nhớ rõ, sau này khi ra ngoài, ngươi hãy nhắc nhở ta nhiều hơn, chớ để người ta chê cười.”

Vân Tú bước lên, nhẹ nhàng xoa trán cho ta:

“Từ sau khi lão phu nhân giỗ kỵ, tiểu thư ngất xỉu trong từ đường, liền thường xuyên mộng mị bất an. Chi bằng đợi ngày trời trong gió mát, đến Phạn Âm Tự một chuyến, tìm phương trượng Liễu Duyên thỉnh giáo?”

Kiếp trước, kiếp này, những chuyện huyền hoặc khó giải này, nếu trong thiên hạ có ai có thể lý giải rõ ràng, e rằng chỉ có phương trượng Liễu Duyên của Phạn Âm Tự.

Ta gật đầu:

“Vậy cũng tốt, xem như một chuyến giải sầu.”

Tâm tư đầy rẫy hoài nghi, hôm sau vừa sáng, ta liền dẫn theo Vân Tú lên đường tới Phạn Âm Tự nơi vùng ngoại ô.

Kiếp trước, sau khi ta chết, Lý Phụng Tiêu cũng thường lui tới Phạn Âm Tự. Nhưng ta là cô hồn, chẳng thể vào trong chùa.

Cánh cổng chùa nặng nề ấy như một lằn ranh, ngăn cách ta với hắn.

Ta không biết những ngày tháng hắn ở trên núi đã trôi qua thế nào, chỉ có thể đứng dưới gốc hải đường trước cổng chùa, lặng lẽ đợi hắn.

Nay trở lại chốn cũ, hải đường vẫn như xưa.

Cánh hoa rơi xuống lòng bàn tay ta, trong thoáng chốc, dường như ta lại nhìn thấy—một người tóc trắng xóa, kéo lê đôi chân không thể đứng lâu, từng bước, từng bước, chậm rãi leo lên bậc đá, bóng lưng chìm khuất trong những rặng tùng xanh thẳm.

Bất giác ta muốn biết, những lần hắn lên núi, trong lòng hắn suy nghĩ điều gì?

Nếu hắn quỳ trước Phật, liệu có phải để cầu nguyện điều chi?

Là tiếc nuối vì đã đợi chờ cả một đời, chỉ mong kiếp này lướt qua nhau như chưa từng quen biết?

Dù hắn chẳng còn thích ta, nếu hôn sự này không thể tránh, kiếp này ta vẫn phải gả cho thái tử.

Ta hiểu nỗi khổ tương tư của hắn trước ngọn đèn cô quạnh, cũng hiểu thâm thù mười năm ròng, hao tâm tổn huyết chỉ để báo thù cho ta.

Chỉ mong đời này hắn có thể toại nguyện, không còn một thân bệnh cốt, chết yểu nơi chốn lạnh lùng.

Kiếp trước ta không hay tỏ lòng hắn, kiếp này hắn lại quên ta giữa bụi hồng trần.

Mười năm ấy, nhốt chặt hắn trong quá khứ, cũng trói buộc ta ở kiếp này.

Có lẽ đây chính là điều mà nhà Phật gọi là nhân quả luân hồi.

“Tiểu thư?”

Thấy ta thất thần nhìn chằm chằm cánh hoa trong tay, Vân Tú khẽ cất tiếng gọi, kéo ta về thực tại.

“Đi thôi.”

Ta phủi nhẹ cánh hoa, bước vào cổng chùa.

Trong làn sương sớm phủ lên núi non trùng điệp, tiếng chuông chùa vang vọng, bậc đá xanh uốn lượn dẫn lối đến thiền phòng.

Phương trượng Liễu Duyên đứng dưới hành lang, ánh mắt từ bi, sâu thẳm tựa nhành khô rơi xuống lòng nước, lạnh lẽo mà tĩnh lặng.

Ta bảo Vân Tú đứng đợi, rồi tiến lên hành lễ, cung kính chắp tay:

“Phương trượng.”

Bên trong thiền phòng, hương trầm như khói sương, theo cơn gió nhẹ cuốn lên, vấn vít lấy tay áo Liễu Duyên, quẩn quanh xâu Phật châu trên tay ông.

Liễu Duyên khẽ gật đầu:

“Thí chủ đến đây, là vì hoang mang, hay vì cầu mong điều gì?”

Ta chần chừ giây lát, đến lúc mở lời, chính bản thân ta cũng cảm thấy hoang đường:

“Phương trượng có tin vào luân hồi chuyển thế chăng?”

Liễu Duyên mỉm cười, giọng nói già nua chậm rãi vang lên:

“Sinh tử còn khó lĩnh hội hơn cả trần duyên, bần tăng tin hay không chẳng hề quan trọng. Nếu thí chủ có được cơ duyên này, ắt là còn điều chưa trọn, duyên chưa dứt, vậy cứ thuận lòng mà làm, chớ để uổng phí một lần tái sinh.”

Ta khẽ mím môi, thấp thỏm hỏi:

“Ta muốn biết, kiếp này ta và hắn, kết cục là phúc hay họa?”

Liễu Duyên ngưng động xâu Phật châu trong tay, đưa cho ta một ống thẻ xăm.

“Thí chủ hãy rút một quẻ đi.”

Thiên cơ không thể lộ rõ, có những điều Liễu Duyên không thể nói thẳng, chỉ có thể để quẻ xăm chỉ dẫn đôi phần.

Một niệm linh động, ta rút ra một lá xăm.

Nhìn thấy quẻ tượng trên xăm, Liễu Duyên trầm mặc hồi lâu, cuối cùng than nhẹ:

“Thế gian có kẻ cố chấp níu giữ, chỉ mong bù đắp đoạn duyên chưa dứt.

“Đều là những kẻ si tình cả thôi.”

Ông ngẩng đầu, ôn hòa nói:

“Thí chủ hãy trở về đi. Nhân quả chẳng hề dối trá, luân hồi có số định, mọi chuyện cứ tùy tâm mà hành sự.”

Vừa bước ra khỏi viện, trong lòng vẫn còn quanh quẩn lời của phương trượng, bỗng ở con đường xuống núi bên kia, có một bóng người đang dần tiến lại.

Ta hơi sững sờ, liền hành lễ:

“Vương gia.”

Chúng ta đứng ở hai lối rẽ cuối đường, ánh sáng xuyên qua tán lá rừng, phản chiếu lên mặt đất những vệt sáng mờ ảo, tựa như có cả mưa gió tiền kiếp ngăn cách giữa hai người.

Dưới chân ta, hai con đường riêng biệt, cuối cùng cũng hợp thành một lối xuống núi.

Ánh mắt Lý Phụng Tiêu vẫn lãnh đạm như cũ, thần sắc chẳng chút gợn sóng, tựa hồ lạnh lẽo đến tận cùng.

Phương trượng Liễu Duyên bảo ta cứ tùy tâm mà làm.

Ta tự hỏi chính mình—tâm ta, rốt cuộc mong cầu điều chi?

Chớp mắt, gió động rừng lay, vạn sơn đồng vọng.

Ta nhìn con đường ngoằn ngoèo trải dài phía trước, lòng chợt bừng tỉnh.

Ta muốn thù đồ đồng quy—dẫu phải đi con đường khác, chung cuộc vẫn muốn cùng người ấy đến một điểm cuối.

Dù chỉ có thể lặng lẽ đồng hành trên con đường ấy, dù hắn chẳng hề hay biết sự tồn tại của ta, giống như mười năm sinh tử ngăn cách.

Thái tử muốn giữ vững ngôi vị Đông cung, nhất định sẽ tìm mọi cách cưới ta, nắm trọn Bạch gia trong tay.

Hắn là trở ngại lớn nhất, là ngọn núi không thể lay chuyển.

Nhưng ta cố tình muốn lay sơn, nhất định phải đến gần người ta thương.

Lý Phụng Tiêu khẽ gật đầu, giọng điệu xa cách mà khách khí:

“Bạch nhị tiểu thư.”

Ta vươn tay mời:

“Đã trùng hợp gặp nhau, cớ gì không cùng xuống núi?”

Lý Phụng Tiêu khẽ nheo mắt, thản nhiên đáp:

“Chỉ có một con đường, bất quá là cùng đường mà đi, sao gọi là đồng quy?”

Lời hắn lạnh nhạt như vậy, nhưng bước chân lại cố tình chậm rãi, đợi ta theo kịp.

Tính cách hắn thật là ngang ngược, tựa như một sợi thừng xoắn chặt trong chảo dầu.

Lại gần hơn, ta mới phát hiện trong tay hắn cầm một đạo hồng xăm.

Nhìn lại con đường bên kia, đó là hướng dẫn đến Nhân Duyên Điện.

Hắn đi cầu nhân duyên?

Hắn đã có người trong lòng rồi sao?

Nụ cười trên môi ta chợt khựng lại, giọng có chút gượng gạo:

“Vương gia cầu nhân duyên, chẳng hay hỉ sự đã gần kề?”

Lý Phụng Tiêu cẩn thận thu lại đạo hồng xăm, giọng điệu bình thản:

“Cũng coi như vậy.”

Hắn không nhìn ta, chỉ nhàn nhạt hỏi lại:

“Bạch nhị tiểu thư đến thiền phòng, hỏi điều gì?”

Ta cười nhạt:

“Nói ra… cũng liên quan đến nhân duyên.”

Ánh mắt hắn thoáng dừng trên người ta, tựa như có chút dao động.

Ta không mấy tự tin, nhẹ giọng nói:

“Phương trượng bảo rằng, nhân quả đã định, ta cùng người mà ta mong cầu… chung quy cũng sẽ viên mãn.”

Không biết có phải ta đa tâm hay không, giọng hắn so với ban nãy càng lạnh lẽo vài phần:

“Chớ vội mừng quá sớm, mọi sự chưa đến hồi kết, kết quả ra sao, chưa ai có thể nói trước.”

Hắn nghiêng mắt nhìn ta, hàng mày sắc như đao:

“Chỉ e Bạch nhị tiểu thư cùng người trong lòng, khó thành lương duyên.”

Ta siết chặt tay trong tay áo, móng tay cắm sâu vào lòng bàn tay:

“Thế sự nếu không thuận, ta nhất định cưỡng cầu.”

Lý Phụng Tiêu nhếch môi cười nhạt, ý vị khó lường:

“Điểm này, ta cùng nhị tiểu thư có phần giống nhau—đều là người cố chấp cưỡng cầu.”

Hết bậc đá xanh, xe ngựa của mỗi người đều dừng ở không xa.

Trước khi rời đi, Lý Phụng Tiêu quay đầu nhìn ta, vạt áo màu huyền thanh điểm họa tiết hỏa vân tối màu, dưới ánh trời rạng rỡ lại tựa như có hỏa diễm bập bùng.

Thần sắc hắn lạnh lẽo, ánh mắt sâu thẳm, từng chữ nói ra đều chậm rãi, nặng nề:

“Vậy thì chúc nhị tiểu thư, được như ý nguyện.”

Ta gắng gượng kéo lên một nụ cười ôn hòa:

“Chúc vương gia, chung quy tìm được lương duyên.”

Chờ bóng dáng hắn khuất hẳn, Vân Tú mới dè dặt bước lên, nhỏ giọng nói:

“Tiểu thư, nô tỳ thấy vương gia hình như tức giận.”

Nhớ đến đạo hồng xăm hắn cất giữ, lòng ta như có mây đen phủ kín.

Lời nói thì mạnh mẽ cưỡng cầu, nhưng ta làm sao có thể phá vỡ nhân duyên của hắn?