Ta nhặt được một nam nhân ven đường,
Hắn bảo mình là thư sinh lên kinh ứng thí.
“Ân đức của cô nương, tại hạ xin ghi lòng tạc dạ!”
Năm năm sau,
Hắn long trọng đến gõ cửa nhà ta, dáng vẻ phong lưu xuất chúng, tay còn xách theo ba bức họa chân dung.
“Cô nương, người muốn chọn—là vị đại tướng quân xông pha chiến trận, tiền tài đầy kho này?”
“Hay là vị Thượng thư Bộ Hộ thanh danh vang khắp kinh thành, suốt đời thanh bạch chẳng vướng bụi trần này?”
“Hay vẫn là… vị hoàng đế bận trăm công nghìn việc, nhưng thật sự có ngai vàng để truyền lại này?”
….
Ta nhặt được một nam nhân nơi ven đường, dung mạo thanh tú, xem ra chẳng phải người thường dân.
Trên người hắn còn có tiền túi, căng phồng, khiến ta yên tâm không ít.
Thế là ta vung tay áo, cõng hắn về nhà, lại mời lang trung đến bắt mạch.
“Ôi chao, chỉ là thiếu nước, khát quá mà thôi.”
Lại còn là người da mặt mỏng.
Ta đổ hai gáo nước lớn vào miệng hắn, cuối cùng cũng sặc tỉnh.
Để tỏ rõ tầm quan trọng của bản thân, ta bảo: “Ngươi bị cảm nắng, là ta cứu mạng ngươi, ngươi nợ ta một mạng đấy.”
Quả nhiên, mặt nam nhân đỏ bừng, hai tay ôm quyền, định quỳ xuống hành lễ.
“Cô nương đại ân đại đức, tại hạ suốt đời chẳng dám quên!”
“Ấy ấy ấy…”
Chẳng cần ràng buộc cả đời, chỉ cần chia nửa túi tiền của ngươi cho ta là được.
Nhưng hắn đã đội cho ta cái mũ lớn như thế, ta đành gãi đầu ngượng ngùng nói: “Được rồi, ngươi ngồi đó, ta vào nấu cơm cho.”
Hắn ở lại nhà ta hai ngày, đến ngày thứ ba, trời còn chưa sáng, đã để lại một tờ giấy rồi rời đi không một lời từ biệt.
“Nếu ta đỗ cao, nhất định báo đáp cô nương.”
“Hỏng rồi.”
Lời khách sáo như vậy, ta nghe đã nhiều.
Tỷ tỷ Chu ở viện Xuân Hồng vẫn đợi vị trạng nguyên từng cùng nàng hoan lạc một đêm; cô nương nhà bên vẫn nhớ mong vị trạng nguyên từng được nàng cho ăn một bát cháo; thậm chí bà thím họ Hà năm mươi tuổi cũng còn đợi vị trạng nguyên chẳng biết đã chết xó xỉnh nào, ba mươi năm rồi chưa từng quay lại.
Trạng nguyên năm nào cũng có, nhưng sao những người từng đi qua thôn ta đều như bốc hơi khỏi nhân gian?
Nghĩ mãi chẳng thông, chỉ biết mình mất toi số bạc.
Ta nằm bẹp trên giường hai ngày, thầm trách bản thân lúc hắn vừa tỉnh dậy sao không thò tay lấy hai thỏi bạc từ túi hắn.
Nói bao lời đẹp đẽ có ích gì?
Bạc ơi là bạc…
Nhưng đời người phải tiếp tục, ta chấn chỉnh tinh thần, đến ngày thứ ba thì xuống giường.
Không còn khóc vì số bạc đã mất nữa.
Năm năm sau, ta đang đuổi theo một bầy heo con trong chuồng, thì có tiếng trống tiếng chiêng vang lên ngoài cổng.
“Ra mở cửa nào!”
Ta đành bỏ lũ heo con chạy tán loạn, ra mở cổng.
Vừa vung chổi trong tay, vừa quát: “Ai đó! Vô lễ quá!”
“Cô nương, là ta đây!”
Ta cố lục lại khuôn mặt hắn trong ký ức, mãi mới nhớ ra được cái tên từng đặt cho hắn khi nằm vật trên giường.
“A! Ngũ Lượng!”
Tên này là ta đặt lúc nằm dưỡng thương hai ngày, giá vừa hợp với thân phận, âm lại hợp với phẩm chất.
Vô lương.
Nam nhân kia thoáng sững người, nhưng cũng không khách khí mà bước vào nhà, tự tay múc cho mình một bát nước.
“Cô nương, ta đến báo đáp ân cứu mạng đây!”
Hắn vỗ tay một cái, người phía sau mang đến ba bức họa.
Một bức vẽ nam nhân kiếm mi dài mắt sáng, trong mắt tràn đầy sát khí.
“Tân nhiệm Đại nguyên soái binh mã của thánh thượng, tung hoành chiến trường, có thể nói là chiến vô bất thắng!”
“Hơn nữa cô nương xem dung mạo này, trong phủ chỉ có một thị thiếp, cô nương mà vào cửa chính là đương gia chủ mẫu!”
Ta thầm tính toán trong lòng, nhà có tiền, người thì thường không ở nhà, lại chỉ có một thị thiếp, ta vào đó cũng chẳng cô đơn, quả là nhân gia tốt.
Hắn lại lấy ra một bức nữa…
“Vị này là Thượng thư bộ Hộ, tuy rằng tự mình phấn đấu mà nên, song trong nhà không có phụ mẫu, cũng không có thiếp thất.”
“Chỉ là… bản thân hắn hơi khó đối phó một chút.”