Vừa thấy tôi, ông cười nói:
“Ồ, tỉnh rồi à? Nhóc con này đúng là mạng lớn thật đấy.”
Người trước mắt là y tá ở trạm y tế xã.
Từ lời ông nói, tôi mới biết hôm mẹ bỏ đi đã gọi điện về quê, nhờ bà nội lên đón tôi.
Nhưng bà chưa từng đi xa, phải đổi xe mấy lần, lạc đường trong thành phố, cuối cùng phải nhờ đến công an mới tìm được căn phòng trọ của bố mẹ tôi trong khu ổ chuột.
Lúc đó tôi đã ngất vì đói.
Bà nội không có tiền đưa tôi đi bệnh viện, cũng không đủ tiền để đưa tôi về quê. Cuối cùng là công an lái xe đưa hai bà cháu tôi về làng.
“Không sao, chỉ là đói quá nên ngất, lại thêm cảm nhẹ nên sốt. Giờ hạ sốt rồi, không có gì đáng lo nữa.”
Ra tới cửa, tôi nghe ông ấy nói với bà nội:
“Bác à, bác thật sự muốn nuôi nó sao?”
Im lặng một lúc, tôi nghe thấy bà đáp:
“Nó không nuôi, thì tôi nuôi.”
Năm tôi ba tuổi, cha mất, mẹ bỏ đi.
Tôi có bà nội.
Tốt quá rồi, tôi nghĩ.
Tôi không phải trẻ mồ côi.
Trẻ mồ côi là những đứa không ai cần như trong phim truyền hình.
Còn tôi, tôi có người cần – tôi có bà nội.
3
Bà nội không có tiền cho tôi đi mẫu giáo.
Lũ trẻ cùng tuổi trong làng đều đã đến trường.
Buổi tối, bà về nhà luôn ngồi dưới ánh đèn tù mù, lấy cái túi vải nhỏ đựng tiền ra, đếm đi đếm lại mớ tiền giấy đủ màu, những nếp nhăn giữa trán ngày càng hằn sâu.
Tôi không hiểu vì sao bà cứ thở dài.
Tôi cũng không ghen tị với những đứa trẻ đi mẫu giáo, không thèm khát sữa hay bánh mì trong miệng chúng, cũng chẳng ham thích những cô giáo thơm thơm dẫn các bạn tập thể dục mỗi ngày.
Tôi chỉ thích chạy lon ton sau lưng bà, nhìn bà đi khắp nơi lật đất cuốc cỏ.
Bà chẳng có mảnh ruộng nào của riêng mình.
Bà cứ đi khắp nơi tìm những mảnh đất bỏ hoang, chỗ nào người ta chê không trồng được là bà tìm đến.
Bà cần cù cuốc cỏ, xới đất, từng chút một biến những vùng đất hoang ấy thành chỗ có thể gieo trồng.
Nhưng cũng có thể bị người ta đòi lại bất cứ lúc nào.
Cũng không thể trách họ, vì đó vốn dĩ là đất của họ.
Chỉ là trước đây họ ngại cực chẳng muốn làm, đến khi bà vất vả cải tạo xong, họ lại quay lại nhận phần.
Chính nhờ những mảnh đất người ta không cần ấy, bà đã nuôi tôi – đứa bé mà mẹ mình không cần – khôn lớn.
4
Năm tôi tám tuổi, cuối cùng bà nội cũng dành dụm được một ít tiền.
Nhờ sự giúp đỡ của làng, tôi mới được đi học tiểu học.
Tôi là đứa lớn tuổi nhất trong lớp.
Bọn trẻ trong lớp, đứa nào cũng từng đi mẫu giáo, từng học cộng trừ nhân chia, thuộc làu bảng chữ cái tiếng Anh.
Chúng mặc quần áo mới đẹp đẽ, ríu rít cười đùa, chế giễu tôi.
Tôi cúi đầu nhìn bộ đồ mình đang mặc — là bộ bà nội tự tay may cho tôi từ tấm vải mua ở chợ trước ngày nhập học.
Là bộ đồ mới mà tôi còn không dám mặc vì sợ làm bẩn.
Tôi không hiểu vì sao bọn họ lại cười tôi.
Nhưng tôi cũng chẳng quan tâm.
Ngày đầu tiên đến lớp, tôi đã học được cách viết cái tên của mình một cách nguệch ngoạc.
“Lâm Đông Thăng.”
Về nhà, tôi viết tên mình cho bà xem, bà mừng rỡ như bắt được vàng.
“Đông Thăng, con tên là Đông Thăng, là mặt trời mọc từ phương Đông.”
Bà xoa đầu tôi từng cái một, lặp đi lặp lại dặn dò tôi phải chăm chỉ học hành.
“Phải học cho giỏi, sau này thi vào đại học tốt, kiếm việc làm tốt.”
Tôi gật đầu thật mạnh.
“Kiếm thật nhiều tiền, để bà nội được sống sung sướng.”
Dưới ánh đèn lấp lánh, nụ cười nở hoa trên khuôn mặt nhăn nheo của bà, là ký ức đẹp đẽ nhất thời thơ ấu của tôi.
May mắn là tôi có một cái đầu sáng dạ.
Những gì thầy cô giảng, chỉ cần tôi tập trung là học được.
Cộng trừ nhân chia, bảng chữ cái ABCD — tuy tôi học trễ hơn người khác, nhưng lại học giỏi nhất lớp.
Mỗi lần tôi mang về một tấm giấy khen, những nếp nhăn trên mặt bà lại giãn ra rạng rỡ như nở hoa.
Mỗi lần bà đi khắp làng khoe “cháu tôi lại đứng nhất lớp đấy,” tấm lưng còng vì làm ruộng bao năm của bà lại thẳng tắp đầy tự hào.
Người trong làng cũng không còn đến giành lại mấy mảnh đất bà đã vất vả cải tạo nữa.
Thậm chí có mấy nhà còn cố ý chừa ra cho bà một khoảng đất to hơn một chút.