Thẩm Vực nhớ lại cái ngày tôi quyết định cùng anh lên Bắc Thành lập nghiệp.

Tôi ngẩng đầu, đôi mắt long lanh:

“Thẩm Vực, em không sợ khổ, em chỉ sợ anh không cần em nữa.”

Lúc ấy Thẩm Vực đã trả lời thế nào?

Hình như anh xoa đầu tôi, cười bảo tôi ngốc.

Nhưng giờ đây, người không cần đối phương — lại là tôi.

Tôi thuê một căn hộ một phòng ngủ trong khu dân cư cũ ở Bắc Thành, tạm thời ổn định lại cuộc sống.

Tôi không nói với bất kỳ ai địa chỉ mới, kể cả mấy người bạn cũ ở quê lâu lâu mới liên lạc.

Tôi cần thời gian và không gian để liếm láp vết thương, và vạch lại cuộc đời không có Thẩm Vực.

Rất nhanh sau đó, tôi tìm được việc ở một công ty văn hóa sáng tạo quy mô không lớn, nhưng không khí làm việc khá dễ chịu — tôi phụ trách mảng lên ý tưởng nội dung.

Cuộc sống như thể đột nhiên quay về quỹ đạo, bình thản, đều đặn, thậm chí đôi khi yên tĩnh đến lạ lùng.

Thỉnh thoảng, tôi nghe được vài tin tức rời rạc về Thẩm Vực từ những người bạn chung.

Nghe nói anh ấy như biến thành một người khác — làm việc điên cuồng hơn, tính khí nóng nảy hơn.

Có lần trong một buổi tụ họp, có người vô tình nhắc đến tên tôi, anh liền ném vỡ ly ngay tại chỗ.

Tôi chỉ lặng lẽ nghe, không bình luận gì.

Đau lòng ư?

Có lẽ vẫn còn chút ít, nhưng nhiều hơn là một cảm giác tách biệt, trơ lì.

Tôi bắt đầu học cách tận hưởng sự cô đơn:

Tan làm thì nấu cho mình bữa tối đơn giản,

Cuối tuần đi xem một bộ phim,

Hoặc đến thư viện ngồi cả một ngày.

Tôi thậm chí còn đăng ký một lớp học vẽ phác thảo, để thực hiện giấc mơ thuở nhỏ của mình.

Chỉ là, trong vô số đêm khuya, tôi vẫn thường bừng tỉnh khỏi những giấc mơ kỳ quái và hỗn độn.

Trong mơ, có khi là con hẻm dài ở quê, thoảng hương hoa hoè, thiếu niên Thẩm Vực đèo tôi trên xe đạp, tiếng chuông leng keng vang vọng.

Có khi là đêm đông lạnh giá ở Bắc Thành, chúng tôi chen chúc trong căn phòng trọ chật chội, chia nhau một tô mì ăn liền, vậy mà vẫn cười rạng rỡ mãn nguyện.

Lại có khi, là bức ảnh ở sân bay kia — ánh mắt Thẩm Vực nhìn Tô Thanh Nhụy, dịu dàng đến mức khiến tôi nghẹt thở.

Tôi biết, để quên được một người, cần có thời gian.

Tôi tự đặt mục tiêu cho mình: một năm, tối đa một năm, nhất định phải nhổ tận gốc Thẩm Vực ra khỏi trái tim mình.

Thế nhưng, số phận dường như không định để tôi yên ổn mà chữa lành.

Một buổi chiều, khi tôi đang chỉnh sửa đề án trong công ty, lễ tân báo có người tìm.

Tôi bước ra khu tiếp khách, và nhìn thấy người mà tôi không muốn gặp nhất — Tô Thanh Nhụy.

So với trong ảnh, Tô Thanh Nhụy còn xinh đẹp hơn, khí chất dịu dàng, trên người là hàng hiệu, tôn lên vóc dáng nổi bật.

Cô ấy nhìn tôi, mỉm cười nhè nhẹ, mang theo một chút thương hại từ trên cao nhìn xuống:

“Cô Lâm, chúng ta nói chuyện một chút được không?”

Quán cà phê dưới công ty, không gian yên tĩnh, trang nhã.

Tô Thanh Nhụy nhẹ nhàng khuấy ly latte trong tay, giọng nói dịu dàng, nhưng từng chữ thốt ra đều như mũi kim tẩm độc.

“Cô Lâm, tôi biết sự xuất hiện của tôi có thể đã khiến cô và Thẩm Vực hiểu lầm nhau. Tôi rất xin lỗi.”

Cô ấy ngước mắt lên, ánh nhìn chân thành đến mức không thể bắt bẻ:

“Nhưng giữa tôi và A Vực… chuyện không đơn giản như cô nghĩ.”

Tôi siết chặt ly nước trong tay, đầu ngón tay trắng bệch, nhưng nét mặt vẫn giữ sự điềm tĩnh:

“Cô Tô, tôi nghĩ cô nhầm rồi.

Tôi và Thẩm Vực đã chia tay. Giữa hai người có chuyện gì, không liên quan đến tôi.”

Tô Thanh Nhụy khẽ mỉm cười, nụ cười ấy mang theo một chút thông cảm đầy ngụ ý:

“Thật vậy sao? Nhưng A Vực rất đau khổ.

Anh ấy là người nặng tình cảm, nhất là với những chuyện xưa cũ.

Chúng tôi lớn lên bên nhau, có những thứ tình cảm mà người ngoài không thể hiểu được.”

Tôi ngập ngừng một chút, cô ấy lại nhắc tiếp:

“Giống như ngăn kéo khóa trong phòng làm việc của anh ấy. Bên trong toàn là những kỷ vật từ thời niên thiếu của chúng tôi.

Có lẽ anh ấy chưa bao giờ cho cô xem nhỉ?”

Tim tôi bỗng chùng xuống nặng nề.

Ngăn kéo đó, tôi biết.