02

Nghe ta nói xong, quản gia sững người trong chốc lát, sau đó liền nở nụ cười chân thành, vành mắt cũng ươn ướt.

Ông liên tục gật đầu nói: “Được, được”, rồi lập tức sai người xử lý hết đống đồ cũ ấy.

Sau đó còn đích thân mang thuốc đến đắp cho ta.

Xuân về ngày càng ấm, nhưng địa long dưới sàn vẫn chưa tắt.

Ta nằm trên ghế tựa, nhìn họ lặng lẽ bận rộn, lòng thấy yên bình đến lạ, rồi vô thức thiếp đi.

Trong mơ, ta quay về những năm tháng thiếu thời.

Khi ấy Tiêu Ngọc Quân vẫn chưa phải Tĩnh Bắc Hầu.

Chàng chỉ là một thần tử sống nương nhờ trong cung.

Cha mẹ chàng trấn giữ biên cương, phụ hoàng thương cảm chàng đơn độc nên đưa chàng vào cung nuôi dạy.

Thế nhưng, trong hoàng cung có những quy tắc sinh tồn riêng.

Tính cách chàng trầm lặng, không lấy lòng được ai.

Trong học đường, thường bị các hoàng tử và con cháu quý tộc xa lánh; cung nhân thì gió chiều nào theo chiều nấy, cũng thường tỏ thái độ lạnh nhạt.

Lần đầu tiên ta gặp chàng cũng là vào một buổi đầu xuân như vậy.

Gió xuân còn lạnh, chàng mặc áo mỏng, một tay áo bị nước hắt ướt.

Vài thiếu gia con quan tụ tập quanh chàng mà cười nhạo, chàng thì chỉ lặng im cúi đầu, không nói một lời.

Ta từ nhỏ đã được phụ hoàng cưng chiều, tính tình bộc trực, ngang tàng.

Lúc ấy lập tức quát lui đám người kia, còn kéo chàng đi thay bộ đồ sạch sẽ.

Từ đó về sau, ta thường chơi cùng chàng.

Trên lớp học, trong buổi săn bắn, tại yến tiệc trong cung…

Bên cạnh ta luôn có một cái bóng trầm mặc đi theo.

Tài năng và năng lực của chàng cũng dần được người khác nhìn thấy.

Chàng vốn không phải kẻ tầm thường, một khi có cơ hội liền bứt phá bay cao.

Phụ hoàng cũng nhiều lần tán thưởng: “Hổ phụ sinh hổ tử.”

Khi Bắc Cảnh gây chiến, Tiêu Ngọc Quân xin xuất chinh.

Lúc ấy, chàng mới mười bảy tuổi.

Chưa đến tuổi hai mươi đã lập công phong hầu, mở phủ riêng.

Những kẻ từng coi thường chàng đều thay đổi thái độ, tranh nhau lấy lòng.

Công thành danh toại, chính là lúc trăng tròn hoa nở.

Chúng ta thuận lý thành chương, trở thành đôi phu thê trẻ khiến cả kinh thành ngưỡng mộ.

Khi ấy ta ngây thơ nghĩ rằng, lòng chàng đối với ta sẽ chẳng bao giờ thay đổi.

Khi ta cảm lạnh, chàng phi ngựa suốt ba mươi dặm trong đêm đi mời thái y;

Ta kêu thuốc đắng, chàng bốc từng hạt sen, tỉ mỉ bóc bỏ tâm sen đút cho ta;

Ta thích bánh quế ở phía nam thành, chàng đội mưa đi mua về, vậy mà chiếc bánh còn chẳng dính một giọt nước nào.

Vị thiếu tướng quân từng khuấy đảo sa trường, khi đứng trước mặt ta lại chỉ là một chàng trai vụng về nhưng chân thành.

Ta từng trêu chàng:

“Người khác chắc sẽ bảo ta kiêu căng ngạo mạn lắm.”

Chàng lại nhìn ta bằng ánh mắt cháy bỏng, nghiêm túc đáp:

“Từ ngày nàng giúp ta giải vây, ta đã thuộc về nàng rồi.”

“Nàng đã đồng hành cùng ta nửa đời trước, nửa đời sau cũng không được tự ý rời đi.”

“Ta bám lấy nàng rồi, dù thế nào nàng cũng không được bỏ rơi ta.”

Ánh mắt ấy nóng rực, làm tim ta run lên từng hồi.

Sự mãnh liệt đó, đến giờ ta vẫn nhớ như in.

Cũng chính vì từng được yêu sâu đậm như thế…

Nên khi chàng không còn yêu nữa, ta chỉ liếc qua là nhận ra ngay.

Chỉ là ta cố chấp không chịu nhìn nhận.

Phải rồi, thanh mai trúc mã, quen nhau nửa đời.

Ta sao có thể thừa nhận, chàng lại có thể thay lòng?

Huống chi, người đó lại là một cô gái mồ côi nghèo khổ, được ta cưu mang.

Khi không có chiến sự, chàng chỉ giữ chức nhàn, sống cuộc đời nhàn tản của một vị hầu gia.

Phần vì muốn tránh điều tiếng, phần cũng vì muốn có thêm thời gian ở bên ta.

Tính ta năng động, thích kéo chàng đi khắp nơi du ngoạn.

Chúng ta từng phi ngựa xuyên qua bãi cỏ mướt mát ở ngoại ô;

Từng chèo thuyền dưới trăng ở Tây Tử Hồ;

Từng nắm tay nhau đứng trên đỉnh núi mờ sương mây phủ…

Cho đến chuyến đi xuống phía nam năm đó.

Chúng ta đi tìm một danh cầm sống ẩn dật, trên đường thì gặp được Liễu Mạn Chi đang lâm nạn.

Nàng am hiểu âm luật, ta mừng vì có được một tri kỷ như thế – chỉ tiếc, nàng lại giỏi cổ cầm hơn đàn tranh.

Còn Tiêu Ngọc Quân, từ trước đến nay luôn yêu thích cổ cầm.

Chàng thường nói:

“Tiếng cầm thanh khiết, như gió tùng qua khe núi, có thể gột rửa bụi lòng; không giống tiếng tranh vội vã, dù hoa mỹ nhưng thiếu đi dư âm sâu lắng.”

Với ta, điều ấy chẳng đáng bận tâm.

Nhưng Liễu Mạn Chi hiểu chàng, luôn có thể phụ họa vài câu như tri âm:

“Hầu gia nói rất đúng.”

“Cầm là nhạc cụ hàm chứa đức, âm thanh thưa thớt nhưng đánh thẳng vào tâm can.”

“Tựa như vùng đất thanh sạch sâu trong lòng người, nơi khó chạm đến nhất.”

Người mà ta tưởng là tri kỷ…

Thì ra lại là hồng nhan tri kỷ của phu quân ta.

“Bá Nha – Tử Kỳ”, là do ta đưa nhau gặp gỡ nơi Giang Nam ấy.