05

Cố Nhĩ là cậu ấm sinh ra trong nhung lụa, từ nhỏ đến lớn luôn được muôn vàn yêu thương.

Tôi và Hứa Ức thì không.

Tôi vừa chào đời đã bị bố mẹ bỏ rơi, bà ngoại là người tằn tiện từng chút để nuôi tôi khôn lớn.

Sau này, bà ngoại già rồi, không còn sức làm việc, để trang trải cuộc sống, bà cho thuê căn phòng phía Tây của sân nhà nhỏ.

Hứa Ức chuyển đến vào năm tôi học lớp một.

Mẹ của Hứa Ức rất dịu dàng, rất xinh đẹp. Tôi từng ghen tị vì cậu ấy có mẹ.
Nhưng cậu ấy chỉ có mẹ, giống như tôi chỉ có bà ngoại.

Những tối mùa đông, trời tối rất nhanh.

Cậu bé Hứa Ức khi đó vì đói bụng mà phải ra sân uống nước lạnh, bị tôi nhìn thấy liền chỉ biết ngốc nghếch cười trừ.

Tôi bẻ một nửa củ khoai nướng của mình đưa cho cậu ấy.

Sau đó, bà ngoại biết hoàn cảnh nhà cậu, liền dọn thêm một đôi đũa trong bữa cơm gia đình.

Mẹ Hứa Ức mua rất nhiều đồ ăn đến cảm ơn bà ngoại.

Bà chỉ xua tay:

“Không sao, chị cứ yên tâm làm việc, thằng bé sau này cứ qua đây ăn cơm.”

Hồi nhỏ, tôi thấp bé, đi chậm, chạy cũng chậm.

Lũ bạn hay gọi tôi là “khoai tây nhỏ”. Vì không đuổi kịp mọi người, tôi thường bị bỏ lại phía sau và chơi một mình.

Cho đến khi Hứa Ức xuất hiện.

Cậu ấy rõ ràng là cao nhất, chạy nhanh nhất.

Nhưng lại không đuổi theo lũ bạn mà đứng nguyên tại chỗ, chờ tôi.

“Từ nay, tớ sẽ luôn đi cạnh cậu. Cậu là khoai tây nhỏ, tớ là khoai nướng, tớ sẽ luôn ở bên cạnh cậu.”

Cậu bé năm ấy trong ký ức của tôi lúc nào cũng rực rỡ.

Như ánh mặt trời trong một ngày mù sương.
Như bông hoa hướng dương nở ra giữa đống đổ nát.

Nhưng rồi vào năm lớp 7, mẹ Hứa Ức mắc bệnh nặng.

Dù đã vay mượn khắp làng xóm, họ hàng, cũng chỉ gom góp được vài triệu.

Nhìn số tiền viện phí khổng lồ, Hứa Ức lần đầu liên lạc với người cha mà cậu chưa từng gặp mặt.

Họ nói gì tôi không biết, nhưng số tiền cứu mạng, cậu ấy không xin được.

Mẹ của Hứa Ức qua đời vào mùa đông năm ấy. Cậu căm ghét người cha ruột của mình đến tận xương tủy.

Sau đó, Hứa Ức chuyển vào sống cùng nhà với tôi.
Căn phòng phía Tây, bà ngoại lại cho thuê tiếp.

Bà ngoại nhận giặt quần áo thuê và dọn dẹp để kiếm thêm tiền.

Còn tôi và Hứa Ức, từ bốn giờ sáng đã đi nhặt chai lọ để kiếm tiền sinh hoạt và học phí.

Nhưng chỉ được hai ngày, tôi đã bị cảm.

Từ đó về sau, Hứa Ức nói gì cũng không cho tôi đi nữa.

“Cậu phải ngủ đủ, không thì lại ngủ gật trong giờ. Đầu óc vốn đã chậm, làm sao thi đỗ trường Nhất Trung cùng với tớ?”

Tan học, cậu đến quán phở của chú Vương rửa bát.
Tôi thì đến quán cơm nhỏ của cô Lý phụ giúp.

Chú Vương và cô Lý rất thương chúng tôi, thường cho mang đồ ăn thừa của quán về nhà.

Cuộc sống rất mệt mỏi, chẳng có cách nào dừng lại.

Cuộc sống rất khổ cực, không thể nào tránh khỏi.

Nhưng tôi luôn nhớ đến những ấm áp nhỏ nhặt ấy:

Một chiếc bàn vuông nhỏ, một món mặn, hai món rau, bóng dáng bận rộn của bà ngoại.

06

Những ngày như thế kéo dài đến năm lớp 8.

Bố của Hứa Ức bất ngờ xuất hiện trước cửa nhà tôi.

Chiếc xe sang trọng phía sau ông ta hoàn toàn không hợp với con ngõ nhỏ hẻo lánh này.

Ông ta mang theo rất nhiều quà đắt tiền, nhưng Hứa Ức khóa chặt cửa, kiên quyết không chịu gặp.

Cho đến một ngày tan học, Hứa Ức bị người của bố cậu ấy kéo lên xe.

Từ hôm đó, tôi không còn gặp lại Hứa Ức nữa.

Nghe nói cậu ấy chuyển sang học ở trường tư thục tốt nhất thành phố.

Nghe nói cậu ấy đã đổi tên, lấy lại họ của bố, giờ tên cậu ấy là Tang Ức.

Bà ngoại nói, kết cục này với Hứa Ức cũng không hẳn là tệ.

Ít nhất cậu ấy không cần ra ngoài nhặt chai lọ từ sáng sớm nữa, có thể sống một cuộc sống đủ đầy.

Mùa đông năm Hứa Ức rời đi, bà ngoại tôi ngã bệnh.

Tôi nấu cháo kê – món bà thích nhất. Bát của tôi đã ăn hết, còn bát của bà thì nguội dần.

Tôi dùng điện thoại của bà gửi tin nhắn cho mẹ, bảo bà bệnh nặng, cầu xin bà mau về.

Mẹ chỉ nói:
“Mẹ biết rồi, đến Tết mẹ sẽ về.”

Nhưng bà không đợi được đến Tết năm đó.

Đêm hôm trông bà, những cơn gió lạnh rít qua căn nhà cũ, phát ra những âm thanh ghê rợn.

Cái chết có mùi như khi tuyết tan, nước rơi lên lá khô.

Hàng xóm lần lượt đến rồi lại rời đi.

Trong cơn mơ hồ, tôi như thấy Hứa Ức, nhưng khi dụi mắt, bóng dáng ấy đã biến mất.

Mẹ cuối cùng cũng về kịp trước khi bà ngoại được chôn cất.

Cùng về còn có bố dượng và cô em gái cùng mẹ khác cha của tôi.

Khi ăn cơm, em gái tò mò hỏi tôi:
“Sao chị lại ở nhà em? Bao giờ chị về nhà chị vậy?”

Bố dượng uống một ngụm rượu, im lặng không nói gì.

Mẹ cười gượng, bảo em gái chỉ mới bốn tuổi, trẻ con nói linh tinh.

Tôi lặng lẽ ăn phần cơm của mình.

Tôi nghĩ, từ giờ mình có thể sống cùng mẹ.

Nhưng ngay sau Tết, mẹ đã bán rẻ căn nhà của bà ngoại.

Mẹ để lại cho tôi chút tiền rồi đưa bố dượng và em gái lên thành phố khác làm việc.

Ngày mẹ đi, tôi không biết phải đi đâu.

Tôi chạy ra mộ bà ngoại, ôm chặt bia mộ, ngồi suốt một đêm.

Tôi mơ màng ngủ thiếp đi, không biết từ khi nào, đến sáng hôm sau cô chủ nhiệm Phương tìm thấy tôi.

Cô đỏ mắt hỏi tôi sao lại ngủ ở đây, nếu không tìm thấy tôi cô sẽ báo cảnh sát.

Tôi mếu máo, bật khóc nức nở:
“Cô ơi, con không còn nhà nữa.”

Cô Phương đưa tôi về nhà cô, nấu cơm cho tôi ăn, rồi liên hệ với nhà trường để sắp xếp cho tôi ở ký túc xá.

Khi đó, rất ít người ở lại trường. Mỗi lần nghỉ lễ, bạn cùng phòng đều về nhà, chỉ còn lại tôi.

Trường học trống không khiến tôi thấy sợ hãi.

Tôi khóa cửa, đóng kín cửa sổ, như thể làm vậy có thể giữ lại chút bình yên trong thế giới cô đơn này.

Tôi thường nhớ về Hứa Ức, khi vừa thức dậy, khi ăn khoai nướng, hay khi gặp những bài toán không giải được.

Nghe bạn học nói, cậu ấy đã được gia đình gửi ra nước ngoài học.

Cậu ấy sống ổn chứ?

Có lẽ, cậu ấy đang sống rất tốt.

07

Có lẽ vì thiếu dinh dưỡng nên dù lần nào khám sức khỏe tôi cũng cố ngẩng cao đầu, tôi vẫn là người thấp nhất lớp.

Cho đến cấp hai, các bạn vẫn gọi tôi là “khoai tây nhỏ”.

Nhưng tôi không giận, vì Hứa Ức từng nói:
“Tinh túy luôn nằm ở những gì nhỏ bé nhất.”

Để thi đỗ Nhất Trung, tôi dốc sức làm bài tập.

Người khác ăn cơm, tôi làm bài.

Người khác ngủ, tôi làm bài.

Người khác chơi bóng, tôi làm bài.

Vượt qua năm lớp 9 đầy căng thẳng, tôi tự hào cầm giấy báo trúng tuyển của Nhất Trung đến thăm bà ngoại.

Tôi để lại tờ giấy trước mộ bà, sau đó đi nhập học ở Nam Thành – một trường tư thục.

Vì thành tích của tôi được miễn học phí và còn nhận học bổng.

Xin lỗi, Hứa Ức, mình không thể hoàn thành lời hứa với cậu được.

Nhưng giờ cậu chắc đang ở nước ngoài rồi, cũng không còn đến Nhất Trung nữa.

Ngày nhập học, tôi xách theo một chiếc túi dệt to, trông có vẻ lạc lõng giữa đám đông.

Không biết có phải vì tôi quá nhỏ con không, nhưng đến lượt tôi, vài nam sinh bên cạnh đã đẩy tôi ra khỏi hàng.

Mặt tôi đỏ bừng, đứng đó lúng túng.

Vài giây sau, tôi cảm thấy có một bàn tay đặt lên vai mình.

Tôi quay lại, ánh nắng rọi qua khiến tôi nheo mắt, và hàng ngàn nỗi nhớ trong suốt bao năm qua bỗng hóa thành cơn hỗn loạn.

Hứa Ức?

Cậu ấy cúi đầu nhìn tôi, mỉm cười, rồi lớn tiếng nói với đám đông phía trước:

“Mọi người tránh ra, đến lượt bạn này rồi! Đây là một ‘khoai tây nhỏ’, bị đẩy ra ngoài mất rồi!”

Đám đông phía trước quay lại, không mấy hài lòng.

Có người nhận ra Hứa Ức, liền chào:
“Tang Ức! Cậu đi báo danh à?”

Đúng rồi, là cậu ấy, đúng thật là cậu ấy.

“Hứa… Không, Tang Ức.”

“Thịnh Hạ, tớ đây, cứ gọi tớ là Hứa Ức đi.”

Gió nóng tháng tám hôn lên gò má tôi, cháy bỏng, dữ dội.

Nụ cười của Hứa Ức dưới ánh mặt trời rực rỡ đến chói mắt.

Lâu ngày không gặp nhưng vẫn như lần đầu tiên, mới mẻ và thân quen.

Tôi vui mừng khôn xiết, sau hai năm xa cách, chúng tôi lại bất ngờ cùng bước chung một con đường.

Hứa Ức kể, ngày đầu tiên bị đưa về nhà họ Tang, cậu ấy đã làm xét nghiệm ADN.

Cậu ấy bỏ trốn nhiều lần, nhưng lần nào cũng bị bắt về.

Gia đình họ Tang nói với mọi người là đã đưa cậu ấy ra nước ngoài học, thực ra chỉ là cấm túc ở nhà.

Cho đến khi cậu ấy thỏa hiệp, đồng ý đổi họ và thừa nhận thân phận, lệnh cấm túc mới được gỡ bỏ.

Việc đầu tiên Hứa Ức làm là quay lại tìm tôi, nhưng lúc đó nhà của bà ngoại đã bị bán.
Hàng xóm nói tôi đã theo mẹ đến nơi khác.

Có lẽ vì tôi tên Thịnh Hạ, nên vận may của tôi thường đến vào mùa hè.

Tôi cảm ơn thần linh đã để tôi và Hứa Ức gặp lại nhau vào cuối hạ này.

Trước giờ tự học tối, chúng tôi thường ra bờ sông gần trường đi dạo.

Khi áp lực quá lớn, cậu ấy phá lệ trốn học, cùng tôi chèo thuyền trên sông ngắm hoàng hôn.

Hôm đó về trường quá muộn, để tránh bị phát hiện, cậu ấy nắm chặt tay tôi, mười ngón đan vào nhau, dẫn tôi chạy băng qua hành lang.

Khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy thế giới chỉ còn lại hai chúng tôi.

Những ước mơ về tương lai lại hiện lên trong đầu, tôi chỉ mong thời gian ngừng trôi ở giây phút này.

Chúng tôi trốn thoát được khỏi cuộc kiểm tra, nhưng lại đụng ngay thầy giám thị khi đang chạy.

Hậu quả là cả hai bị phạt trực nhật một tháng.

Tôi từng ngủ trên chiếc giường ở căn nhà thuê ngoài trường của Hứa Ức, cậu ấy vừa làm bài vừa đợi tôi tỉnh dậy để giảng bài cho tôi.

Mỗi kỳ nghỉ, cậu ấy không về nhà, hai chúng tôi luôn cùng nhau đi leo núi.

Kỳ nghỉ tháng 11, trên xe taxi trở về trường, Hứa Ức bảo leo núi mệt quá, cậu ấy buồn ngủ, rồi nằm lên đùi tôi ngủ thiếp đi.

Tôi cứng đờ cả người, không dám nhúc nhích.

Giữa chừng tôi len lén nhìn cậu ấy, phát hiện không biết từ khi nào cậu ấy đã mở mắt.

“Cậu tỉnh… ”

Câu nói chưa kịp hết, chiếc taxi bỗng xóc mạnh.

Tôi chao đảo về phía trước, Hứa Ức vội vàng ngồi dậy đỡ tôi.

Hơi thở của cậu ấy phả lên mặt tôi, ấm áp, nhột nhột.

Khoảng cách giữa môi chúng tôi chỉ còn vài milimet.

Trái tim tôi nặng nề, hơi thở gấp gáp, đầu óc mơ màng.

Tiếng bác tài làu bàu vì vừa cán phải ổ gà kéo tôi về thực tại.

Tôi và Hứa Ức nhanh chóng tách ra, ngồi lại vị trí của mình.

Tôi không dám quay sang nhìn cậu ấy, chỉ đưa tay sờ lên mặt mình – nóng ran.

Niềm vui sau khi tái ngộ khiến tôi tạm quên mất, rằng những gì làm từ giấc mơ, định sẵn sẽ sụp đổ.

Sau khi Hứa Ức qua đời, tôi mất một thời gian dài không phân biệt được đâu là thực, đâu là mơ.

Mỗi lần ngồi trong taxi, tôi đều mơ hồ nhìn thấy Hứa Ức nằm trên đùi mình, nói cậu ấy mệt, cậu ấy buồn ngủ.