Tin Hứa Phi Mặc sắp nhậm chức ở Túc Châu đã lan truyền khắp chốn, duy chỉ có ta – vị hôn thê danh chính ngôn thuận của chàng – lại chẳng hề hay biết.
Bởi chàng chê ta ngu ngốc, chê ta lúc nào cũng quấn lấy chàng không buông.
“Lần này được thăng chức, may nhờ tiền bối Từ ở Khúc Châu tiến cử, nhất định phải đến tận nhà bái tạ.”
“Chu Tiểu Huỳnh ư? Không cần báo cho nàng ta, nàng ta như chó con, đánh hơi thấy mùi là tự khắc lần đến tận Túc Châu!”
Ta lén nghe được đôi ba câu, lòng bỗng rộn ràng vui sướng, vội vàng về phòng thu dọn tay nải nhỏ thêu hoa.
Trước kia toàn là chàng bỏ mặc ta, lần này, ta nhất định phải đi trước, đến Túc Châu chờ chàng.
Đợi khi Hứa Phi Mặc đặt chân đến nơi, nhìn thấy một Chu Tiểu Huỳnh thông tuệ lanh lợi thế này, hẳn chàng sẽ ngỡ ngàng không thốt nên lời.
Thế nhưng hôm sau, khi thuyền phu hỏi ta định đi đâu, ta gãi đầu, lòng bỗng hoang mang—không nhớ nổi nữa.
Túc Châu? Khúc Châu? Hay là… Tô Châu?
Thuyền phu nhíu mày, có vẻ mất kiên nhẫn, bèn đưa tay ngoáy tai rồi đẩy ta sang một bên.
Ta sợ ông ấy lại mắng mình như Hứa Phi Mặc, vội vã dúi bạc vào tay ông, gật đầu cười nịnh nọt:
“Khúc Châu! Phải rồi, ta muốn đi Khúc Châu!”
1
Sợ thuyền phu đuổi xuống, ta co mình ngồi nép vào một góc, đôi tay siết chặt lấy chiếc tay nải nhỏ thêu hoa.
Đến khi thuyền rời bến, ánh tà dương đỏ au như lòng đỏ trứng vịt muối nhuộm lên mặt nước, những gợn sóng bị mái chèo khua động lấp lánh tựa vàng vụn. Cảnh đẹp đến mức khiến ta lơ đãng, buông rơi cả mối dây đang đan dở trong tay.
Trên thuyền, mấy phu khuân vác ngồi quây quanh bếp sưởi, trước mặt bày một đĩa đậu nành ngũ vị, vừa nhâm nhi vừa trò chuyện rôm rả:
“Quan phụ mẫu của Khúc Châu – Từ đại nhân, đến nay vẫn chưa thành thân, đúng là khiến người ta sốt ruột thay!”
“Không không, nghe nói đại nhân đã có hôn ước từ thuở nhỏ, hơn nữa, hỉ sự cũng sắp tới rồi!”
Ta mím môi cười thầm, lòng vui như mở hội.
Bọn họ nói không sai, hôn sự giữa ta và Hứa Phi Mặc đã được định từ khi chúng ta lên chín.
Khi ấy, Hứa Phi Mặc rất thích ta, cứ luôn miệng gọi: “Tiểu Huỳnh muội muội!”
Trưởng bối nhà họ Hứa cũng từng khen: “Tiểu Huỳnh thêu lưới nhanh nhất, đường kim mũi chỉ khéo léo vô cùng. Tiểu Huỳnh lại xinh xắn, lanh lợi, nhất định phải sớm định thân cho Hứa Phi Mặc, không thể để người khác đoạt mất!”
Chàng đối với ta là thật lòng, bất kể chuyện lớn nhỏ gì cũng đều để tâm.
Cánh diều đẹp nhất, chàng luôn để ta chơi trước.
Trong sân, quả thanh mai đầu tiên chín, chàng cũng là người hái xuống, dành cho ta nếm thử.
Vậy nên, ngay cả bát canh ngọt có độc kia, ta cũng là người uống thay chàng trước.
Thực ra, ta đã chẳng còn nhớ rõ hương vị của bát canh ấy ra sao nữa.
Chỉ nhớ khi tỉnh lại, đại phu thở dài lắc đầu, nói rằng e là ta sẽ ngốc nghếch cả đời.
Năm đó, ta mới chỉ chín tuổi, hoàn toàn không hiểu “ngốc nghếch cả đời” có nghĩa là gì.
Ta ngước mắt nhìn quả thanh mai non trên cành, siết chặt sợi dây lưới đang đan dở trong tay, cúi đầu suy nghĩ thật lâu. Cả đời? Là cái “cả đời” trong câu “cả đời hứa hẹn” mà Hứa Phi Mặc đã nói hôm trước sao?
Trưởng bối nhà họ Hứa áy náy trong lòng, bèn bồi thường cho nhà họ Chúc rất nhiều ngân phiếu, đồng thời cũng định luôn hôn sự của ta và Hứa Phi Mặc, xem như bù đắp cho ta.
Họ nói rằng, đợi ta tròn mười sáu tuổi, Hứa Phi Mặc sẽ cưới ta về làm thê tử, hơn nữa, không được nạp thiếp, để sau này không ai có thể bắt nạt ta.
Hứa Phi Mặc nắm chặt tay ta, trong mắt tràn đầy thương xót:
“Đợi Tiểu Huỳnh lớn đến mười sáu tuổi, ta sẽ cưới nàng.”
Thế là ta cứ chờ, rồi lại chờ.
Chờ đến khi ngoài sân, cây thanh mai đã kết trái rồi chín rụng trọn bảy mùa.
Hai năm trước, ta hào hứng chạy đến báo tin cho Hứa Phi Mặc:
“Tiểu Huỳnh đã tròn mười sáu tuổi rồi, chàng có thể cưới ta về nhà rồi đấy!”
Hôm ấy, chàng đang đợi bằng hữu đến cùng uống rượu ngắm hoa.
Chàng liếc ta một cái, trong mắt tràn đầy chán ghét:
“Là đợi mười sáu năm, ngươi nhớ nhầm rồi, đồ ngốc.”
Khi vị khách quý bước vào, Hứa Phi Mặc thậm chí chẳng buồn nhìn ta thêm một lần, lời nói ra cũng không giấu nổi sự tiếc nuối:
“Từ huynh, ta thực sự hâm mộ huynh, vị hôn thê của huynh đoan trang, học rộng hiểu sâu, lại môn đăng hộ đối.”
Ta ngồi trên tảng đá lớn trong sân, lặng lẽ suy nghĩ thật lâu.
Ta rất muốn nói với chàng rằng:
“Hứa Phi Mặc, không phải Tiểu Huỳnh nhớ nhầm đâu, mà là chàng nhớ sai rồi.”
Nhưng không sao cả.
Tiểu Huỳnh không giống chàng, không có nhiều bằng hữu để gặp gỡ, cũng chẳng có bao nhiêu chuyện quan trọng để bận tâm.
Tiểu Huỳnh không có bạn bè, ngoài đan lưới, cũng chẳng biết làm gì khác.
Vậy nên, chờ thêm mười sáu năm nữa… cũng không sao cả.
“Tiểu Huỳnh có rất nhiều thời gian, đều có thể dùng để chờ chàng.”
Giống như mỗi lần dọn nhà, chàng luôn nói Tiểu Huỳnh ngốc nghếch, mang theo sẽ rất phiền phức.
Vậy lần này, Tiểu Huỳnh đi trước rồi, chàng có thấy Tiểu Huỳnh trở nên thông minh hơn không?
Có thấy rằng, thực ra, Tiểu Huỳnh cũng chẳng hề phiền phức đến thế không?
2
Ta càng nghĩ càng vui, chợt nghe thấy tiếng nhạc cưới rộn ràng từ xa vọng lại. Đó là một con thuyền tân hôn được trang trí rực rỡ với lụa đỏ và dây hoa xanh.
“Ngươi xem! Vừa nhắc đến đã tới rồi!”
Mấy phu khuân vác cười vang, hào hứng reo lên “Đại hỉ! Đại hỉ!”, rồi rối rít bàn nhau đến xin hai viên kẹo mừng, một trái hỷ quả để lấy chút may mắn.
Thuyền cập lại gần, hỷ nương vui vẻ rải kẹo cưới cho mọi người, cả hai con thuyền đều tràn ngập không khí tưng bừng.
Chỉ có cô dâu là lặng lẽ ngồi trong góc, đầu đội khăn voan đỏ, đầu cúi thấp, trên váy còn loang một vệt nước ẩm ướt.
Không một ai đến dỗ dành nàng.
Nhìn cảnh đó, lòng ta bỗng thấy xót xa thay, bèn nhẹ nhàng ghé đầu lại gần, cất giọng khe khẽ hỏi:
“Tỷ tỷ, thành thân là chuyện vui, cớ sao tỷ lại khóc?”
Cô dâu không trả lời.
Ta lục lọi chiếc túi vải nhỏ thêu hoa của mình, móc ra chiếc lưới đồng tâm vừa đan dở trên đường đi:
“Tặng tỷ cái này nhé, đừng khóc nữa.”
Nhìn thấy chiếc lưới đồng tâm, nước mắt cô dâu càng rơi nhiều hơn.
Nàng run rẩy, nghẹn ngào nói:
“Ta… ta không muốn gả cho hắn!”
“Vậy… vậy phải làm sao bây giờ?”
Cô dâu nức nở, vừa lau nước mắt vừa nghẹn ngào nói:
“Muội muội, ta nói thật cho muội biết… Ta không phải là vị hôn thê của Từ đại nhân đâu. Là vì vị hôn thê thật sự của ngài ấy bỏ trốn, nên tộc trưởng mới bắt ta thay thế.”
“Mọi người đều nghĩ ta không biết điều, bởi vì Từ đại nhân ở Khúc Châu còn trẻ tuổi mà đã làm quan, tiền đồ vô lượng…
“Nhưng có ai từng hỏi ta… hỏi ta có người trong lòng hay chưa?”
Khoan đã!
Không đúng!
Quan Từ đại nhân ở Khúc Châu chính là vị hôn phu của ta mà!
Ta tròn mắt nhìn nàng, nghiêm túc nói:
“Tỷ khóc nhầm rồi! Người thành thân với Hứa đại nhân là ta mới đúng! Vị hôn thê bỏ trốn cũng là ta đây!”
Cô dâu lập tức ngừng khóc, ngơ ngác nhìn ta như thể không tin vào tai mình.
Thế là ta kể lại từ đầu, nghiêm túc giải thích rằng hôn ước giữa ta và Hứa Phi Mặc đã được định từ năm ta lên chín. Ta đi một mình đến đây là vì sợ chàng chê ta ngốc, con thuyền này chính là đang đến Khúc Châu, và ta đang trên đường tìm chàng.
Hơn nữa, ta thích Hứa đại nhân đến vậy, làm sao có thể bỏ trốn được chứ!
Cô dâu nhìn ta, nước mắt còn chưa khô mà lại bật cười, liên tục gật đầu:
“Đúng, đúng rồi! Hôn ước từ năm chín tuổi, chính là Từ đại nhân nhậm chức ở Khúc Châu!”
Phải rồi!
Cô dâu mừng rỡ, vội vàng cùng ta đổi y phục, rồi nắm chặt tay ta mà rối rít cảm tạ.
Ta kéo khăn voan đỏ xuống, hơi ngượng ngùng phất tay:
“Đừng cảm ơn ta nữa, suýt chút nữa ta còn hại tỷ rồi.”
“Đừng khóc nữa, mau đi đi! Đợi ta gặp được Hứa đại nhân, ta sẽ bảo chàng nói lại với tộc trưởng.”
Mấy ngày trôi qua trên thuyền, rồi lại thêm một đoạn đường dập dềnh trên kiệu hoa.
Dọc đường đến Khúc Châu, khắp nơi trống chiêng rộn rã, tiếng chúc mừng vang vọng không ngớt.
Lòng ta ngọt như mật, khóe môi bất giác cong lên thành nụ cười.
Hì hì, náo nhiệt như vậy, hóa ra Hứa Phi Mặc xem trọng việc cưới ta đến thế sao?
Xuống kiệu hoa, bái đường xong xuôi.
Ta ngồi trong phòng tân hôn phủ sắc đỏ, qua lớp khăn voan nhìn thấy bóng dáng mờ ảo của Hứa Phi Mặc.
Mấy ngày không gặp, dường như chàng lại cao lên một chút?
Dưới ánh đèn rực rỡ, chàng vươn tay cầm lấy chiếc cân nhỏ, chuẩn bị vén khăn che đầu của ta.
Ta khẽ siết lấy vạt váy trên đầu gối, tim đập thình thịch.
Bỗng bên ngoài vang lên tiếng bẩm báo gấp gáp:
“Đại nhân! Đại nhân, không hay rồi! Đập nước ở cửa sông bị vỡ!”
Biến cố đột ngột xảy ra, Hứa Phi Mặc ngay cả hỷ phục cũng chẳng kịp thay, vội vàng chạy ra ngoài.
Bước chân chàng gấp gáp, đi được mấy bước mới sực nhớ hôm nay là đêm tân hôn của chúng ta.
Chàng ngoái đầu lại, giọng nói trầm thấp hơn ngày thường, mang theo chút áy náy:
“Thật xin lỗi, nàng cứ nghỉ ngơi trước, không cần chờ ta.”
Aiz… ngay cả giọng nói cũng trầm nặng như vậy, xem ra làm quan ở Khúc Châu thực sự không dễ dàng.
Ta sợ chàng cảm thấy áy náy trong lòng, vội vàng lớn tiếng gọi theo:
“Không sao đâu! Hôm nay không sao, ngày mai cũng không sao cả, không cần vội, không cần vội!”
“Ta… ta sẽ luôn ở nhà chờ chàng về!”
Không sao đâu, Hứa Phi Mặc, ta đã quen chờ chàng rồi mà!
Bóng lưng Hứa Phi Mặc khựng lại một chút, tựa hồ khẽ bật cười, rồi đáp:
“Được, có phu nhân chờ ta, ta nhất định sẽ về sớm.”
“Lúc ta phái người đến báo tin, trong lòng còn thấp thỏm lo sợ, cứ nghĩ rằng Từ đại nhân bỏ mặc phu nhân trong đêm tân hôn, thế nào phu nhân cũng giận dỗi một trận.”
Một vị quan theo hầu cũng không nhịn được mà cười nói đùa:
“Xem ra Từ đại nhân thật có phúc, cưới được một vị phu nhân hiền lương như vậy.”
Ta gỡ khăn voan, chuẩn bị lên giường nghỉ ngơi.
Bên cạnh, nha hoàn cẩn thận dè dặt, cười lấy lòng mà khuyên nhủ:
“Đại nhân bận rộn chính sự, phu nhân đừng giận dỗi.”
Không giận, không giận, việc gì phải giận chứ?
Ta phất tay, thản nhiên nói:
“Nếu đập vỡ rồi, sẽ có rất nhiều người chết đuối, vậy mới thật sự không tốt.”
Đêm khuya, Hứa Phi Mặc vẫn chưa trở về.
Chỉ có tùy tùng đến truyền lời, bảo ta sáng mai chuẩn bị ít y phục, đưa qua cho chàng.
Ta mở rương tủ mới giật mình phát hiện—mới mấy ngày không gặp, sao y phục của Hứa Phi Mặc lại cũ đến vậy? Có cái còn bị rách, thế mà cũng chưa ai khâu vá lại.
Mấy ngày lênh đênh trên thuyền, lại ngồi kiệu hoa suốt dọc đường, ta đã mệt lả từ lâu, nhưng lúc này nhìn y phục của chàng, cơn buồn ngủ lại chẳng còn nữa.
Dứt khoát ngồi xuống, cầm kim chỉ, chậm rãi vá lại từng đường may dưới ánh đèn leo lét.
Trước kia, Hứa Phi Mặc lúc nào cũng khen ta may vá khéo léo, lưới đan tinh xảo, cứ bám theo ta đòi cho bằng được.
Nhưng sau này, nhà họ Hứa ngày càng vinh hiển, trong phủ không thiếu thêu nương, nha hoàn, chàng cũng không còn đeo lưới tay do ta đan nữa, thậm chí ngay cả y phục của chàng, ta cũng chẳng được phép chạm vào.
Giờ đã trở thành tân nương của chàng, lại có thể giúp chàng một tay, trong lòng ta tràn ngập vui sướng.
Từng mũi kim, từng đường chỉ, ta đều vá thật cẩn thận, thậm chí còn tỉ mỉ thêu lên ống tay áo hai chú đom đóm nhỏ.
Cứ thế, vá đến tận lúc trời tờ mờ sáng, ta mệt quá, ôm chặt mấy bộ y phục rồi thiếp đi.
Mơ mơ màng màng, ta cảm giác có ai đó ngồi bên giường, lặng lẽ nhìn ta rất lâu.
Người ấy không đánh thức ta, chỉ trước khi rời đi, nhẹ nhàng kéo chăn lên đắp kín bờ vai cho ta, dịu dàng xoa nhẹ lên mái tóc ta.
Ta nghe thấy tiếng cửa khẽ khàng khép lại, cùng với giọng nói của Hứa Phi Mặc ở bên ngoài, dặn dò nha hoàn:
“Tổ mẫu sẽ đến vào chiều mai, ngươi hầu hạ bên tổ mẫu đã lâu, cũng biết tính tình người không tốt.
“Nhớ giúp phu nhân nói vài lời hay, đừng để tổ mẫu làm khó nàng.”
3
Tiểu Huỳnh mất tích rồi.
Nha hoàn Lục Mai vội vã chạy vào bẩm báo, nhưng Hứa Phi Mặc thậm chí chẳng buồn ngẩng đầu lên, chỉ cau mày, mất kiên nhẫn mà ngắt lời nàng:
“Lại làm trò gì nữa đây? Lần này là trong viện thanh mai nở hoa, muốn gọi ta ra ngắm? Hay lại đan được lưới mới, muốn ta thử xem?”
“Bảo nàng ta yên tĩnh một chút, đừng có bày trò lừa gạt nữa, ta không có thời gian để đùa với nàng.”
Dạo này, Hứa Phi Mặc rất bận.
Sắp nhậm chức ở Túc Châu, chàng phải chuẩn bị sắp xếp quan hệ với các đồng liêu trên dưới.
Nghe nói ở Khúc Châu, tiền bối đồng môn Từ Phong Thanh vừa thành thân. Từ huynh từng nhiều lần nâng đỡ chàng, là người có ơn tri ngộ với chàng, nay nhân ngày vui của người ta, chàng cũng phải dốc lòng chuẩn bị một món đại lễ, tự mình đến chúc mừng.