Anh để tôi ở lại nhà bố mẹ chồng – những người khinh thường tôi là gái quê – bắt tôi làm không khác gì người giúp việc.

Tôi không muốn ăn bám, liều mình ra ngoài làm công nhật kiếm tiền, có chút thu nhập họ mới tỏ ra dễ chịu hơn.

Khi tôi lấy hết can đảm đến trường đưa đồ cho Tống Minh Khiêm, thì tận mắt thấy anh tay trong tay với một cô gái, vừa đi vừa cười nói trên sân trường.

Tôi nhận ra cô ấy – chính là người mà anh luôn kẹp ảnh trong sách.

Chị gái thân yêu à, không biết chị có chịu nổi cuộc sống khổ cực thế này không.

Mọi người trong thôn đều ra ngoài ăn cưới, mẹ bảo tôi ở lại nói chuyện với chị.

Chị mặc áo bông đỏ, ngồi trong căn phòng nhỏ chỉ đủ kê một chiếc giường gỗ và tủ áo đơn sơ.

Vì không đủ phòng, nên phòng tân hôn là đi thuê lại nhà dân trong thôn.

Cả căn nhà dột nát, trời mưa thì nước nhỏ tứ phía, đi vệ sinh cũng phải đi bộ hơn chục phút.

Kiếp trước tôi từng sống ở đây, mưa xuống là khắp nơi phải dùng chậu, bát hứng nước.

Tống Minh Khiêm là người thành phố, chẳng biết sửa mái, lại không cho tôi nhờ ai giúp.

Tô Minh Hoa tỏ vẻ chán ghét căn phòng này, ở nhà chị còn ở phòng rộng hơn nhiều.

Nhưng khi thấy tủ sách đầu giường, vẻ mặt chị lại hiện lên nụ cười đắc ý:

“Tô Tri Hoa, mày chỉ xứng cả đời ru rú trong núi thôi, tao sắp thành người thành phố rồi, muốn ăn gì có nấy, sung sướng khỏi bàn!”

2

Tôi giả vờ như không hiểu gì: “Chị ơi, anh rể sắp được về thành phố rồi sao? Em đâu nghe chính sách nào nói có thể về lại đâu.”

Thấy tôi cái gì cũng không biết, chị tôi lập tức dương dương tự đắc: “Em biết gì chứ, sắp khôi phục kỳ thi đại học rồi. Đến lúc đó, anh ấy thi đậu là có thể về thành phố ở nhà lầu, lái xe con.”

“Thì ra là vậy, ngưỡng mộ quá đi.”

Tống Minh Khiêm lần này liệu có thật sự đỗ đại học không?

Tôi nhìn cánh cửa chị vừa khép lại, âm thầm cười lạnh.

Hôm tôi kết hôn, “ba món lớn một tiếng” được rước vào nhà chỉnh tề.

Tất nhiên không phải nhà tôi chuẩn bị, mà là trưởng thôn đưa đến làm sính lễ, để rước dâu.

Bày mười mâm cỗ, không chỉ có hạt dưa, lạc rang mà còn là cơm canh nóng sốt thật sự.

Ba mẹ tôi còn phát trứng đỏ cho từng nhà trong thôn, khiến ai nấy đều nịnh nọt làm cha tôi cười tít mắt.

Trong đám rước dâu tấp nập tiến vào nhà họ Tô, cuối cùng tôi cũng được gặp lại Tô An Quốc với vẻ mặt lạnh lùng.

Anh ta hoàn toàn trái ngược với Tống Minh Khiêm – người thì thư sinh yếu ớt, người thì cao lớn vạm vỡ.

Làn da ngăm rám nắng, ngũ quan sắc nét, toàn thân đầy cơ bắp – cảm giác chỉ cần một đấm là tôi tiêu đời.

Tôi có chút sợ anh ta, bởi tận mắt từng thấy anh đánh chết một con chó sói toan cắn mình.

Gượng gạo uống xong chén rượu giao bôi.

“An Quốc, hôn một cái đi!”

“Cô dâu đẹp quá trời, anh có phúc thật đấy…”

Mấy lời trêu ghẹo khiến mặt tôi đỏ bừng, nhưng rất nhanh căn phòng yên tĩnh trở lại.

Mấy tên nháo hôn bị ánh mắt sắc lạnh của anh dọa chạy mất.

Trong làng chẳng ai không sợ Tô An Quốc, đến nỗi không ai dám đùa giỡn đêm tân hôn.

“Anh muốn rời khỏi thôn Tô Gia, ra ngoài buôn bán. Em có muốn đi cùng không?” – Đôi mắt đen thẳm như đáy hồ chăm chú nhìn tôi.

Tô An Quốc vốn không muốn kết hôn vào lúc này.

Từ lúc thấy người thu mua ve chai vào làng, anh đã nung nấu ý định ra ngoài làm ăn.

Nào ngờ cha mẹ anh nghe xong thì hoảng loạn.

“Cậu định đi làm mấy trò đầu cơ tích trữ đấy à!”

“Không được đi! Nếu dám bước chân ra khỏi thôn Tô Gia, thì đừng nhận cha mẹ nữa!”

Làng quê khép kín này còn chưa đón được làn gió cải cách, mọi người vẫn cho rằng chỉ có cày ruộng mới là chính đạo.

Ai mà dám buôn bán thì sẽ bị chỉ trỏ, chê cười, bị nói là ma quỷ nhập thân.

Là con một trong nhà, từ nhỏ được cưng chiều, không ngờ lần này lại bị khóa chặt trong nhà.

Cha mẹ còn lập tức nhờ bà mối đến dạm hỏi, muốn lấy vợ sớm để giữ chân anh lại.

Tôi biết chỉ cần tôi nói “không đi”, thì sáng mai anh sẽ bỏ đi một mình.

“Không đi.”