Ta mỉm cười, nhẹ lau mồ hôi nơi thái dương.
“Chúng ta bắt đầu học động tác đầu tiên nhé?”
Nàng học rất chăm, tiếp thu nhanh, thân thể mềm mại, tiến bộ rõ rệt.
Chỉ là đôi lúc, nàng sẽ chống cằm, ngẩn người nhìn mặt hồ, hàng mày con khẽ nhíu lại.
Một buổi trưa nọ, luyện múa mệt rồi, chúng ta ngồi bên mép thủy tạ cho cá ăn.
Bỗng nàng buồn bã nói:
“Thẩm tỷ, tam tiểu thư nhà tri phủ Hàng Châu mời muội tới nhà thưởng sen, nhưng muội không muốn đi… Mỗi lần gặp, nàng ấy đều khoe thầy mới cha mình mời về, hoặc nói xấu những cô nương khác. Nhưng nếu không đi, liệu các nàng ấy có nghĩ muội kiêu ngạo, rồi không thèm chơi với muội nữa không?”
Ta nhón tay rắc ít thức ăn cho cá, nhìn đàn cá chép tranh nhau đớp lấy.
“Quận chúa.”
Ta nghiêng đầu nhìn nàng.
“Người bạn thực sự, sẽ không vì một lần từ chối mà xa lánh. Còn kẻ vì chuyện nhỏ đã nói xấu sau lưng, lạnh nhạt với quận chúa, thì vốn dĩ không xứng để kết giao.”
Nàng chớp mắt: “Nhưng… muội là quận chúa, phải biết khoan dung, không được dễ dàng làm mất lòng người khác.”
“Khoan dung là khí độ, không phải là hy sinh bản thân để chiều lòng tất cả mọi người.”
Giọng ta dịu dàng, nhưng từng chữ rõ ràng.
“Từ chối một lời mời không thích, không phải là đắc tội. Giống như đàn cá trong hồ, có con thích ăn bên này, có con lại tụ ở chỗ khác.”
“Mỗi bên đều có chỗ riêng, vậy là tốt.”
“Nếu ép tất cả cá phải tụ một chỗ, lại thành hỗn loạn.”
Nàng ngơ ngác như hiểu như không, rồi bất ngờ ôm lấy ta:
“Giá mà tỷ đến phủ Tề vương sớm hơn thì tốt quá… Lão thái phi không phải mẹ ruột của muội và vương huynh, không dám dạy dỗ gì, Tô ma ma thì bận rộn, muội không nỡ phiền. Còn vương huynh, huynh ấy chẳng hiểu lòng con gái đâu, ngốc lắm!”
“Các nha hoàn tỷ tỷ thì lấy chồng hết rồi, mấy tiểu nha hoàn lại không dám nói chuyện với muội.”
“Muội… buồn lắm.”
Có một đêm, ta đi ngang điện ngủ của nàng, thấy đèn còn sáng, bèn ghé vào xem.
Nàng đang cuộn trong chăn, ôm một quyển truyện, đọc đến đỏ hoe cả mắt, mũi cũng đỏ ửng.
Thấy ta vào, nàng nức nở: “Thẩm tỷ… thư sinh và tiểu thư trong truyện này thật tốt với nhau… Tại sao những người có tình lại luôn gặp trắc trở? Sau này muội cũng muốn lấy một thư sinh như vậy, tài hoa, sâu sắc, một lòng một dạ.”
Ta ngồi bên mép giường, dùng khăn tay lau nước mắt cho nàng, trong lòng chỉ còn nụ cười chua xót.
Năm đó ta cũng từng mơ ước như thế.
“Quận chúa,” ta chọn lời cẩn thận, “trong sách, thư sinh dĩ nhiên là tốt. Nhưng nam nhân ngoài đời, không phải ai cũng như thế. Có người lúc đầu cũng là quân tử nho nhã, miệng đầy đạo lý, nhưng theo năm tháng, vì danh lợi hoặc vì dục vọng, sẽ dần lộ bộ mặt khác.”
Nàng ngẩng đầu: “Vậy làm sao để nhận ra?”
“Nhìn lời nói, xem hành động, nhất là nhìn cách người đó chọn lựa khi đứng trước lợi ích hoặc người yếu thế.”
Ta nghĩ đến Tạ Ngọc, giọng trầm xuống.
“Lời ngọt ngào thì dễ, nhưng trách nhiệm và sự tôn trọng bền lâu thì khó. Quận chúa còn nhỏ, sau này ắt có vương gia thay người để tâm. Nhưng xin nhớ, đừng chỉ nghe người ta nói gì, mà hãy nhìn xem người đó làm gì. Và đừng… gửi gắm cả đời vào những giấc mơ hư ảo.”
Nàng tựa vào ta, lặng lẽ rất lâu mới thì thầm:
“Thẩm tỷ, tỷ hiểu nhiều thật. Nhất định là vì tỷ đã gặp người không tốt… đúng không?”
Sống mũi ta cay cay.
Từ hôm ấy, nàng càng thân thiết và tin cậy ta hơn, giữa những buổi luyện múa, luôn thích bám theo ta, kể mấy tâm sự nho nhỏ, hoặc nghe ta nói về chuyện ta theo cha xuôi ngược thuở bé.
Nàng gọi ta là “tỷ”, giọng mềm như tơ, ngọt như mật.
Thủy tạ luyện múa đã trở thành khoảng thời gian yên bình nhất mỗi ngày.
Có lúc, ta giang tay vung tay áo, nàng cũng bắt chước theo, gió hồ lướt qua, từ xa vọng đến tiếng đàn dây mơ hồ.
Một hôm, ta múa đến đoạn cao trào, quên cả bản thân, xoay người một vòng, tay áo tung ra một đường cung tròn tuyệt mỹ, trùng khớp đúng một nhịp.
Ngay khoảnh khắc ấy, từ giữa làn sương mờ ngoài mặt hồ, vang lên một tiếng đàn tranh.
Trong trẻo, nhẹ nhàng, lặng lẽ hòa vào nhịp điệu múa.
Vài nốt tiếp theo, thậm chí còn có ý đuổi theo, hòa hợp – như thể người gảy đàn bên kia hồ nhìn thấy điệu múa này, liền cao hứng mà đáp lại.
Ta khựng lại một chút, tiểu quận chúa cũng ngừng, vui sướng chỉ tay ra hồ:
“tỷ nghe thấy không! Đàn đấy! Hay quá! Rất hợp với điệu múa của tỷ!”
Tiếng đàn ngân nga, không phô trương nhưng ăn khớp đến lạ.
Từng chỗ chuyển nhịp đều phối hợp mượt mà, khiến điệu múa như có hồn hơn.
Khi múa kết thúc, tiếng đàn cũng dần tan, dư âm như hòa tan vào làn nước và núi non.
Từ đó về sau, hễ ta múa say mê bên thủy tạ, tiếng đàn kia lại không hẹn mà đến.
Có lúc là cả khúc, có lúc chỉ vài âm đệm nhẹ.
Luôn luôn cách một khoảng xa, chưa từng thấy người, chỉ có tiếng đàn lặng lẽ xuyên qua gió nước, ăn ý đến kinh ngạc.
Cho người đi dò.
Chỉ nghe nói bên kia hồ là biệt viện của vương phủ, đôi khi có mấy khách đàn nghỉ tạm, luyện tay, ai đàn cụ thể thì không rõ.
Lòng ta gợn lên vài tia xao động khó tả.
Sự thấu hiểu và ăn ý ẩn trong tiếng đàn ấy, như tri kỷ nơi nước hồ, cho ta cảm giác an ủi không thể gọi tên.
Là ai nhỉ?

