“Thiếp tin chàng, chẳng lẽ chàng lại không tin thiếp?”
Tạ Ngọc trầm ngâm một hồi, dùng đầu ngón tay lau đi giọt nước mắt bên má ta, khẽ thở dài:
“Chi Lan đúng là hiền thê!”
“Thật khó cho nàng phải nghĩ đến chu toàn như vậy. Thôi được, theo ý nàng, cứ để lại một chứng cứ phòng lúc cần.”
Hắn đi đến bàn viết, trải giấy, mài mực.
Ngòi bút lơ lửng trong chốc lát, cuối cùng cũng hạ xuống.
Ta đứng bên cạnh, nhìn hắn viết từng chữ: “Người lập thư: Tạ Ngọc, vì bất hòa tính tình với thê tử họ Thẩm, tên Chi Lan, khó lòng sống trọn đời bên nhau, nguyện lập thư này, cho phép nàng tái giá…”
“Bất hòa tính tình.”
Ta nhẹ nhàng lặp lại bốn chữ ấy, lòng bỗng trống rỗng.
Năm xưa đêm động phòng, hắn vén khăn voan, từng nói:
“Chi Lan, ta Tạ Ngọc đời này quyết không phụ ơn tri ngộ của Thẩm lão bản, càng không phụ nàng vì ta mà hạ giá.”
Mực khô dần.
Hắn thổi nhẹ tờ giấy, đưa cho ta, thuận tay lại kéo ta vào lòng, giọng đầy dịu dàng:
“Chi Lan, đừng nghĩ ngợi nhiều. Năm ấy nhà ta sa sút, chỉ là một thư sinh nghèo, đến tiền đi thi cũng chẳng có, là phụ thân nàng cưu mang ta, lại gả nàng cho ta, ân tình này ta vẫn luôn ghi nhớ.”
“Nàng cứ yên tâm, vị trí chính thất mãi mãi là của nàng, Diễu Nương nhất định sẽ tôn trọng nàng.”
Ta vùi mặt vào ngực hắn, giấu đi mọi cảm xúc:
“Thiếp hiểu rồi.”
Hắn hài lòng rời đi.
Đi đến kỹ viện, bầu bạn với Liễu Diễu Nương hay khóc ấy suốt đêm.
Hắn khi còn là thư sinh nghèo, từng yêu chiều ta hết mực, việc trong phủ thay rèm cửa màu gì cũng hỏi ý ta trước.
“Chi Lan vui là được.”
“Thứ Chi Lan thích, ta cũng thích.”
Sau đó, hắn dùng tiền của phụ thân ta mua sách vở, mời danh sư, đỗ cử nhân.
Rồi lại dựa vào mối quan hệ của cha ta – người cùng niên với vị phó chủ khảo – để được người chỉ điểm, đỗ tiến sĩ.
Hắn dần dần trở nên hống hách.
Việc trong phủ không còn bàn với ta nữa.
Giờ đến chuyện của Liễu Diễu Nương, cũng chẳng buồn thương lượng.
Giờ đã hưu rồi.
Đã như vậy, ta cũng không cần phải thương lượng gì nữa.
Tối nay… ta sẽ xuống Giang Nam, về nhà!
3.
Ta cho gọi hai nha hoàn hồi môn thân cận nhất: Xuân Oanh và Thu Yến.
Các nàng theo ta từ nhỏ, trung thành tuyệt đối.
“Thu dọn đơn giản thôi, chỉ mang những thứ cần thiết.”
Ta hạ giọng thật thấp.
“Ngân phiếu, trang sức quý, hộp trang điểm của ta. Còn nữa, đi lấy toàn bộ chìa khóa kho và các rương hòm, cùng tất cả sổ sách kế toán về đây.”
Xuân Oanh tròn xoe mắt, còn Thu Yến thì lập tức hiểu ý, xoay người đi ngay.
Chẳng bao lâu, mọi thứ đã chuẩn bị xong.
Chìa khóa một chùm nặng trĩu, sổ sách cũng dày thành chồng.
Không có những thứ này, Tạ Ngọc cả đời đừng mơ động được đến bạc trong kho, càng đừng nghĩ lấy nổi một đồng từ mấy cửa hàng hồi môn của ta.
“Tiểu thư… chúng ta là đang…” – Xuân Oanh giọng run rẩy hỏi.
“Về nhà.”
Ta thắt lại áo choàng, giấu túi tiền sát người.
“Về Giang Nam, về nhà họ Thẩm.”
Không kinh động bất kỳ gia nhân nào, ba người chúng ta lặng lẽ rời phủ từ cửa hông.
Một chiếc xe ngựa mui xanh đang chờ sẵn trong con ngõ tối, xa phu là biểu huynh của Thu Yến, trầm mặc đáng tin.
Tiếng vó ngựa lộc cộc nghiền lên mặt đường yên ắng, hướng thẳng đến cổng thành.
Tạ Ngọc giờ chỉ là một quan lục phẩm, chưa đủ mặt mũi để cổng thành mở đêm vì hắn, nhưng nhà họ Thẩm ta làm ăn lớn, thuyền buôn đi đêm không ít, có chút giao tình với lão tướng giữ cổng.
Chỉ cần một thỏi bạc, là có ngay một khe hẹp nơi cửa phụ.
Xe ngựa lao ra khỏi cổng thành, chạy thẳng về bến Thông Châu.
Tim ta đập dồn dập, nhưng kỳ lạ thay, trong lòng lại vô cùng bình tĩnh.
Gió sông mang theo hơi nước mát lạnh tạt vào mặt.
“Nhổ neo.”
Ta bước lên ván nối, không ngoái đầu nhìn lại.
Buồm căng gió, mạn thuyền hơi nghiêng, lập tức rời bến.
Tiếng mái chèo vang lên nhịp nhàng, khuấy tan cả dòng sông đầy sao lấp lánh.
Thành tường đồ sộ của kinh sư dần dần mờ nhòe trong màn đêm, thu nhỏ lại, rồi biến mất vào bóng tối.
Lúc này ta mới thở ra một hơi dài, sống lưng chậm rãi thả lỏng.
“Tiểu thư, tiếp theo chúng ta đi đâu? Về thẳng quê cũ ở Hồ Châu sao?”

