“Ta biết rồi.”
Ta gật đầu.
Trương ma ma thấy việc đã xong, cũng không nán lại lâu, dẫn người rời đi.
Ta nhìn chồng kinh Phật cùng bộ bút mực giấy nghiên kia, lắc đầu.
Chép kinh Phật ư?
Ta không rảnh rỗi đến thế.
Ta cất bút mực giấy nghiên sang một bên, thứ này sau này có lẽ còn dùng được.
Còn đống kinh Phật kia…
Ta tiện tay lật thử mấy trang, giấy quả thật khá dày dặn.
Gần đây thời tiết trở lạnh, ban đêm có hơi rét.
Thứ ta thiếu, không phải là kinh văn tu thân dưỡng tính, mà là vật nhóm lửa.
Đúng là buồn ngủ liền có người đưa gối.
Tối hôm đó, ta liền xé một trang kinh Phật, nhóm lên một chậu lửa nhỏ.
Đừng nói, giấy in kinh này, cháy lên thật sự rất bén.
Trong phòng ấm áp hơn hẳn.
Sáng hôm sau, tiểu thái giám ở Thọ Khang cung liền đến lấy kinh Phật ta đã chép.
Ta dang hai tay.
“Chưa chép.”
Tiểu thái giám sững sờ: “Nương nương… việc này biết ăn nói với Thái hậu thế nào đây?”
“Ngươi cứ nói thật.”
Ta đáp, “Nói với Thái hậu rằng ta là phế hậu mang tội, không dám làm ô uế Phật pháp. Kinh văn ấy, ta đã bái lạy rồi cung phụng lên.”
Tiểu thái giám vẻ mặt khó xử, đành quay đi.
Ta đoán, Thái hậu nghe xong, chắc tức đến méo cả mũi.
Nhưng lời ta nói, kín kẽ không lọt giọt nào.
Không dám làm ô uế Phật pháp — cái cớ này, ai cũng không thể bắt bẻ.
Quả nhiên, phía Thái hậu không sai người tới thúc giục nữa.
Nhưng bà ta cũng không vì thế mà buông tay.
Qua thêm hai ngày, Trương ma ma lại đến.
Lần này, bà ta mang theo một tiểu cung nữ.
Cung nữ ấy dáng vẻ thanh tú, cúi đầu không dám ngẩng lên, trông rất rụt rè.
“Đây là người Thái hậu ban cho nương nương, để hầu hạ sinh hoạt thường ngày.”
Trương ma ma nói, “Nó tên là Thanh Hòa.”
Ta liếc nhìn cung nữ tên Thanh Hòa kia một cái.
Nói là hầu hạ, thực chất là phái tới giám thị ta.
Xem xem mỗi ngày ta làm gì, có thật là đang “tu thân dưỡng tính” hay không.
“Nơi này của ta không cần người hầu.”
Ta thẳng thừng từ chối.
“Nương nương,” sắc mặt Trương ma ma trầm xuống,
“Đây là ân điển của Thái hậu, người không thể không biết điều.”
Đây là đang uy hiếp ta.
Ta mỉm cười.
“Được, vậy ta xin nhận phần ân điển này.”
Ta nói.
Ta cũng muốn xem, bọn họ định giở trò gì.
Trương ma ma rời đi, Thanh Hòa liền ở lại.
Nàng ta rất siêng năng, vừa đến đã tranh quét dọn, bưng trà rót nước cho ta.
Nhưng ta biết, ánh mắt nàng, luôn vô tình hữu ý quan sát từng cử động của ta.
Ta chẳng để tâm.
Ta trồng rau thì cứ trồng rau, nuôi gà thì vẫn nuôi gà.
Buổi tối, ta như thường lệ xé một trang kinh Phật, nhóm lửa sưởi ấm.
Thanh Hòa nhìn thấy, sợ đến tái mặt.
“Nương nương… người… sao có thể đốt kinh Phật? Đây là đại bất kính!”
“Bất kính chỗ nào?”
Ta vừa sưởi lửa vừa nói,
“Nếu Phật Tổ biết kinh văn của ngài có thể giúp một kẻ sắp chết rét ấm lại, e rằng người còn vui không kịp.”
Thanh Hòa há miệng, nửa ngày không thốt nên lời.
Chắc nàng đã bị đống “tà thuyết” của ta dọa cho đứng hình.
Ngày hôm sau, nàng nhất định sẽ đem chuyện này, không sót chữ nào bẩm lại cho Trương ma ma.
Ta chờ cơn lôi đình của Thái hậu.
Nhưng kết quả, mấy ngày liền, gió yên sóng lặng.
Bên Thái hậu, hoàn toàn không có động tĩnh.
Ta có chút ngờ vực.
Không giống phong cách của lão nhân gia chút nào.
Mãi đến tối hôm đó, ta mới hiểu ra.
Nửa đêm, ta bị một tràng tiếng gà “cục cục” đánh thức.
Âm thanh dồn dập, như bị kinh hãi.
Ta khoác áo, bước ra ngoài.
Trong sân tối om.
Ta đi tới chuồng gà, phát hiện cửa chuồng đang mở.
Mấy con gà bên trong, đã không cánh mà bay.
Ta khẽ nhíu mày.
Là chồn?
Hay là… người?
Mượn ánh trăng, ta cúi xuống quan sát mặt đất.
Trên đất có vài giọt máu, cùng những dấu chân lộn xộn.
Không phải chồn.
Là người làm.
Ta quay về phòng, Thanh Hòa ngủ rất say.
Ta nhìn nàng, trong lòng sáng như gương.
Kẻ trộm gà của ta, tám chín phần mười, không thoát khỏi can hệ với nàng.
Đây là chiêu mới của Thái hậu.
Bà ta thấy ta sống quá nhàn nhã, không chép kinh, không sám hối, lại còn nuôi gà.
Bà ta muốn cắt đứt niềm vui của ta, để ta hiểu rằng, ở lãnh cung này, ta không có quyền lên tiếng.

