Lúc ta co mình ở cuối hàng, đếm kiến dưới chân, thì chiếc kiệu phượng với chuông vàng treo lủng lẳng vừa hay dừng lại trên đầu ta.
“Ngẩng đầu lên.”
Nữ quan của Quý phi dùng giáp nhọn nâng cằm ta lên:
“Đếm rõ được bao nhiêu con rồi?”
“Ba trăm linh tám con.” Ta nắm chặt vạt áo, lẩm bẩm,
“Nếu tính cả trứng mới nở, thì phải cộng thêm hai mươi nữa…”
Trong tiếng nín cười râm ran khắp cung,
nàng đột ngột nhét ấn phượng vào ngực ta:
“Bản cung ghét nhất là xem sổ sách.”
“Về sau ngươi đếm kiến, tiện thể đếm luôn bạc trong kho.”
1
Hôm đó ta bưng khay trà ngã vào điện Cảnh Hoa, đầu gối va vào gạch lạnh đau nhói. Quý phi nương nương đang bóc hạt dẻ, bị dáng vẻ chật vật của ta chọc cười khẽ: “Tiểu đoàn tử từ đâu tới vậy? Báo tên ra.”
“ Nô tỳ gọi là Du Du.” Ta cúi đầu nhìn khe gạch xanh dưới chân, chợt thấy mũi giày thêu chỉ vàng dừng lại trước mặt. Nàng đưa tay mang mùi thuốc nâng cằm ta lên, móng tay nhuộm hoa phượng điểm nhẹ giữa trán ta, “Nhìn như quả mơ xanh chưa chín, chua lắm đây. Có muốn theo bản cung học chữ không?”
Thế là ta trở thành cung nữ ngốc nhất điện Cảnh Hoa, đến cái chậu đồng cũng bưng không vững.
Ngày hôm sau khi gặp Xuân Đào, ta vừa làm đổ khay trà. Nàng vén rèm mang thuốc vào, búi tóc chải mượt bóng loáng, túi thơm ngọc trai lắc lư bên hông chói mắt. Đêm đó nàng ôm chăn đến tìm ta: “Nương nương sợ muội đạp tung chăn, bảo ta trông chừng.”
Sau khi sống chung mới biết, ban đầu nương nương muốn chọn người chững chạc, nhưng thấy ta ngồi đếm kiến thì đổi ý. Xuân Đào lén nhét ô mai tẩm đường vào tay ta: “Ăn nhiều vào, nương nương nói muội đang lớn.”
Tết Thượng Nguyên treo đèn, ta cõng nàng trèo lên xà nhà, kết quả hai đứa ngã nhào một chỗ. Bà mụ thở dài: “Nương nương lại nhận về một con khỉ con!”
Nương nương lại cười đỡ chúng ta dậy: “Bài Tiêm Ti dạy hôm qua thuộc đến đâu rồi?”
Xuân Đào nói nương nương là nữ tử nhà họ Tạ phương Nam, từng cùng Bệ hạ vượt qua những tháng ngày khốn khó khi còn ở tiềm để. Nàng dạy chúng ta chải tóc phải để lại hai lọn mai, pha trà phải nổi lớp bọt hình hạc trắng. Khi đọc đến câu “Nam phong tri ngã ý”, nàng thường lặng người nhìn ra cửa sổ phía tây.
Cuối thu bệnh ho tái phát, nàng tựa vào gối gấm dạy ta nhận biết thảo dược: “Xuyên bối nghiền nát, hầm lê tuyết… Bệ hạ trước kia thích món này nhất.” Giọng nàng dần nhỏ đi, hương khói từ lò trầm mạ vàng cuộn tròn bay lên.
Ngày Bệ hạ giẫm lên lá ngân hạnh bước vào điện, ta đang đút ăn cho con vẹt trắng. Thiếu niên mặc áo đen, đội vương miện vàng nhẹ đỡ lấy nương nương đang hành lễ: “A tỷ lại khách sáo rồi.”
Chàng cầm tờ tập viết trên án: “Nét tiểu khải cài hoa này, còn tinh tế hơn cả Thái phó.”
Lúc ta dâng trà, bị ánh mắt chàng lướt qua: “Mắt tiểu cung nữ này sáng như con cáo trắng con vậy.” Chàng ném cho Xuân Đào một gói kẹo hạt tùng, vương mùi hoa táo dại.
Đêm đó khi chải tóc, ta hỏi Xuân Đào: “Sao Bệ hạ ít tới vậy?” Trong gương đồng phản chiếu ánh trăng cô đơn ngoài cửa, nàng im lặng thật lâu, chỉ còn tiếng thở dài tan vào gió.
2
Ta tròn mười lăm vào ngày hoa mai trắng trong điện Cảnh Hoa nở rộ.
Trời chưa sáng, Xuân Đào đã rón rén vào bếp nói muốn nấu mì trường thọ cho ta. Nương nương tựa vào lò sưởi vẫy tay gọi, mở hộp trang điểm lấy ra một cây trâm hoa ngọc lan trắng.
“Du Du giờ đã là đại cô nương rồi.” Nàng nhẹ nhàng cài trâm lên tóc ta, ta còn chưa kịp vui mừng thì nàng đã lấy tay che miệng ho dữ dội. Ngoài cửa đột nhiên vang lên tiếng bát sứ vỡ — Xuân Đào tóc tai rối loạn chạy vào, gấu váy dính tro than: “Thượng cung cục dám dùng than rởm thay cho than sợi bạc!”
Ta xắn tay áo định đi lý luận, bị bàn tay lạnh buốt của nương nương ngăn lại: “Tuyết rơi trơn trượt, coi chừng ngã.” Rồi quay sang dặn Xuân Đào, “Hầm tổ yến tuyết Bệ hạ ban lúc trước đi.”
Chén yến tuyết ấy nương nương chỉ nếm được một ngụm. Nửa đêm nàng ho đến nghẹt thở, khăn tay loang lổ vết máu đỏ. Xuân Đào lục tìm ra hai lát nhân sâm già cuối cùng, còn ta nhìn trận tuyết bay ngoài cửa sổ, chộp lấy áo choàng lao ra ngoài.
“Du Du! Ngoài trời đang tuyết lớn—”
Ta không ngoái đầu, lao thẳng vào gió tuyết, chỉ muốn tìm một chỗ dựa cho nương nương.
Ngọn nến trong cung Thừa Khánh chập chờn chói mắt. Ta quỳ trước bức bình phong rồng cuộn, nghe thấy trong phòng ấm có giọng nữ kiều mị: “Bệ hạ nước cờ này thật cao tay!”
Đế giày thái giám giẫm lên tay ta: “Tống chủ tử đang được thánh sủng, còn không mau cút!”
“Thị nữ điện Cảnh Hoa cầu kiến Bệ hạ!” Ta mở khăn lụa giữ trong ngực, vết máu trên đó như cánh hoa rụng, “Nương nương thổ huyết rồi!”
Bỗng vang lên tiếng quân cờ rơi xuống bàn ngọc trong phòng ấm. Khi bóng người áo đen mang theo mùi long diên hương lao ra, trán ta đã dập đến đỏ ửng.
Hoàng đế mặc áo mỏng xông ra giữa gió tuyết, sau lưng có một mỹ nhân áo vàng nhạt đuổi theo: “Bệ hạ hứa sẽ đánh nốt ván này với thiếp—”
“Tránh ra!” Hoàng đế hất tay nàng, tuyết đọng trên cổ áo tan thành giọt nước. Ánh mắt chàng chạm phải ánh nhìn oán độc của Tống mỹ nhân, còn lạnh hơn băng giá dưới mái hiên.
Khi vén rèm bông vào điện Cảnh Hoa, nương nương đang soi gương vẽ mày, phấn hồng bên má đậm bất thường. Nàng quay đầu cười nhẹ: “A Chiêu sao lại…” Chưa kịp dứt lời đã ngã gục xuống.
“Truyền thái y mau!” Hoàng đế bế ngang nàng lên, giọng run rẩy.
Khi đút thuốc, ta cúi người đỡ bát thuốc bên giường, đầu ngón tay hoàng đế vừa chạm vào tay ta bị tê cóng vì giá rét: “Tay ngươi sao còn lạnh hơn tay A tỷ?” Trong giây phút chàng sững lại, Xuân Đào nhận lấy bát thuốc, âm thầm đè tay ta xuống: “Du Du vụng về, để nô tỳ làm.”
Đến giờ Tý, nương nương yên giấc, hoàng đế ngồi bên cửa sổ bóc hạt tùng: “Bao nhiêu tuổi rồi?” Tay ta run nhẹ khi thay khăn, chợt nghe nương nương khẽ nói: “Đứa nhỏ này vừa làm lễ cập kê hôm qua.”
“Năm A tỷ cập kê, luôn giành kẹo hạt tùng của trẫm.” Hoàng đế cho hạt vào miệng, “Chớp mắt đã chín năm rồi.”
Sau bình phong, Xuân Đào khẽ ho một tiếng. Ta cúi đầu tiếp than lửa, vừa ngẩng lên đã bắt gặp ánh nhìn chăm chú của hoàng đế.
Trên đường về, Xuân Đào siết tay ta đến đau thấu xương. Tóc mai nàng phủ đầy sương, giọng còn lạnh hơn tuyết: “Du Du, mãi mãi phải đứng về phía nương nương.”
Móng tay nàng cắm sâu vào da thịt ta, đau đến mức ta co rụt người lại.

