Dì út của tôi vốn có tấm lòng nhân hậu, dung mạo lại xinh đẹp đến mức ở thành phố đã có biết bao nhiêu người đến hỏi cưới.
Nhưng dì không lựa chọn ở lại nơi phố thị phồn hoa ấy, mà quay trở về quê nhà, còn cưu mang nuôi dưỡng rất nhiều đứa trẻ bị bỏ rơi.
Người trong thôn đều khen dì là người không quên nguồn cội, có lòng nhân đức, nhất định sau khi chết sẽ được lên thiên đường hưởng phúc.
Cho đến một ngày, trong thôn bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều thi thể trẻ sơ sinh.
……
Quê tôi là một ngôi làng nhỏ nằm sâu trong núi, vô cùng lạc hậu.
Không chỉ lạc hậu về vật chất, mà cả tư tưởng cũng cổ hủ.
Nhà nhà trọng nam khinh nữ, bé gái sinh ra đa phần đều không thoát khỏi số phận bị vứt bỏ, đến cả phụ nữ trong thôn cũng coi đó là chuyện đương nhiên.
Tôi may mắn là một trong số ít bé gái được giữ lại và còn được sống rất tốt.
Dù những bé gái khác có thoát được việc bị bỏ rơi, thì cuộc sống của họ cũng đầy rẫy đau khổ, người nhà không coi trọng, bị đánh đập chửi bới là chuyện thường ngày, nên ai nấy đều gầy yếu, xanh xao.
Còn gia đình tôi thì khác, đối xử với tôi rất tốt, thậm chí còn không để tôi phải làm việc đồng áng.
Tôi được nuôi nấng trắng trẻo, mũm mĩm, ai trong thôn nhìn thấy cũng đều khen tôi có số hưởng.
Cho đến ba năm trước, dì út từ thành phố trở về.
Khi đó tôi mười sáu tuổi, và đây là lần đầu tiên tôi được gặp dì.
Dì út đẹp như tranh vẽ, xinh đẹp đến mức nghiêng nước nghiêng thành, dù tôi đã được nuôi dưỡng cẩn thận, làn da trắng mịn không tỳ vết, nhưng khi đứng trước dì út, tôi cảm thấy mình thật mờ nhạt, chẳng có chút ánh sáng nào.
Tôi chưa từng thấy ai đẹp đến vậy, đẹp như bước ra từ bức tranh cổ.
Dì khẽ cong môi cười, đưa tay về phía tôi, lòng bàn tay có một viên kẹo được bọc trong giấy màu rất đẹp.
Đối với đứa trẻ chưa từng rời khỏi núi như tôi, viên kẹo ấy chẳng khác nào báu vật mà chỉ vào dịp Tết mới có.
Nhưng ngay khi tôi định đưa tay đón lấy, mẹ tôi đã gọi giật tôi lại.
Mẹ kéo tôi về phía sau lưng, ánh mắt thoáng qua tia chán ghét, tựa như nhìn thấy tà ma.
Nhưng chỉ trong chớp mắt, khi dì út nhìn về phía mẹ, mẹ tôi lại nở một nụ cười gượng gạo, đầy vẻ lấy lòng.
“Em… em gái, chào mừng về nhà.”
Dì út cũng không tức giận, chỉ cười nhẹ nhìn tôi một cái rồi quay người bước vào trong nhà.
Từ hôm đó, dì út không bao giờ quay lại thành phố nữa, mà mãi mãi ở lại trong làng.
Dì dùng hết số tiền mà bao năm tích cóp được, thậm chí còn vay mượn thêm, để xây dựng một trạm cứu trợ ngay trong làng, nhận nuôi những bé gái bị bỏ rơi.
Ban đầu, dân làng không hề cảm kích tấm lòng của dì, thậm chí còn cho rằng dì lo chuyện bao đồng.
Nhưng dì chẳng màng, ngày nào cũng miệt mài đi tìm những sinh linh bé nhỏ bị bỏ rơi.
Thời gian trôi qua, số lượng trẻ con trong trạm cứu trợ ngày càng nhiều, thậm chí có người còn chủ động đem con đến gửi cho dì.
Tuy nhiên, số lượng trẻ tăng lên đồng nghĩa với nhu cầu về tài chính cũng tăng.
Số tiền dì tích góp chẳng mấy chốc đã cạn kiệt.
Nhà tôi cũng không khá giả gì, trước đây đã hết sức giúp dì.
Dì đành phải gõ cửa từng nhà trong thôn để cầu xin trợ giúp, nhưng người dân chỉ đóng chặt cửa, không ai chịu giúp.
Tiếng khóc của trẻ con vang lên không ngớt, trạm cứu trợ đứng trước bờ vực sụp đổ.
Tuy nhiên, khi mọi người nghĩ rằng trạm cứu trợ sắp phải đóng cửa, dì út đột nhiên trở nên giàu có.
Dì không chỉ mở rộng trạm cứu trợ mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống cho những đứa trẻ ở đây, thậm chí còn mời cả bảo mẫu chuyên nghiệp từ thành phố về chăm sóc chúng.
Và, không hiểu vì sao, dì út dường như càng thêm xinh đẹp rạng ngời, như thể năm tháng đã ngừng lại trên gương mặt bà.
Dì dường như quên đi sự bối rối khi từng bị dân làng từ chối giúp đỡ, trái lại còn mang theo lễ vật đi từng nhà cảm ơn họ.
Sau này, tôi nghe nói dì út đã đạt được một thỏa thuận với dân làng: chỉ cần họ đưa những đứa trẻ bị bỏ rơi đến trạm cứu trợ, họ sẽ được trả thù lao hậu hĩnh.
Đứng trước sự cám dỗ của tiền bạc, thái độ thờ ơ của dân làng đã thay đổi hoàn toàn.
Tôi mang theo sự nghi ngờ mà quan sát tất cả chuyện này, nghĩ bụng: một ngôi làng nhỏ thế này, sao lại có thể có nhiều trẻ sơ sinh bị bỏ rơi đến thế?
Nhưng sau này tôi mới biết, quả thật là có rất nhiều, và còn tiếp tục nhiều thêm nữa…
Tôi xách một thùng gỗ nặng trĩu, bên trong chứa đầy sữa đậu nành mà cha đã dậy sớm nấu.
Mùi hương đậu nành thơm lừng lan tỏa khắp nơi.
Một số trẻ ở trạm cứu trợ đã cai sữa, dì út bèn cho chúng uống sữa đậu nành thay thế.
Cha tôi vốn có tay nghề làm đậu hũ và nấu sữa đậu nành rất ngon, nên công việc này đành giao cho nhà tôi đảm nhận.
Tôi đã uống loại sữa đậu nành này từ nhỏ, mỗi tối mẹ đều chuẩn bị cho tôi một bát.
Ngay cả khi tôi đến trường, mẹ cũng sẽ chuẩn bị sẵn trong chai nước khoáng lớn để tôi mang đi.
Hôm nay vì mẹ bị sốt cao đột ngột phải đi thị trấn khám bệnh, nên nhiệm vụ mang sữa đậu nành được giao cho tôi.
“Giao xong thì lập tức về, không được nấn ná.”
Cha tôi dặn dò nghiêm khắc.
Tôi vội vã bước đi, không thèm để ý đến những lời chào hỏi nhiệt tình đầy nịnh bợ của dân làng.
Cha mẹ tôi luôn dặn tôi không nên quá thân thiết với người trong làng, dường như họ có sự chán ghét sâu sắc với dân làng.
Trạm cứu trợ nằm lưng chừng núi, tôi phải cố gắng lắm mới leo lên được.
Lần trước tôi đến đây là hai năm trước, khi đó trạm cứu trợ mới thành lập, còn tạm bợ, từ bên trong văng vẳng tiếng khóc của trẻ sơ sinh.
Tôi đẩy cánh cửa gỗ ọp ẹp, nhìn thấy dì út đang ôm một đứa trẻ với vẻ mặt dịu dàng.
Ánh mắt dì ấy tràn đầy yêu thương, như thể được bao phủ bởi một tầng hào quang thánh thiện.
Tôi luôn rất kính trọng dì út, bởi bà đẹp đẽ và nhân hậu, như một thiên thần vậy.
Nhưng cha mẹ lại luôn cấm tôi thân thiết với dì út, ba năm qua tôi và dì hiếm khi có dịp nói chuyện riêng.
Trở lại hiện tại, trạm cứu trợ đã được sửa sang lại mới tinh, không còn vẻ hoang tàn năm xưa.