Ba mắt đỏ ngầu, đấm mạnh vào tường, gào thét ông trời sao lại hành hạ viên ngọc quý của ông như vậy.

Không ai để ý đến tôi – đứa bé nằm trên giường bệnh còn lại – đã mất nước đến mức không phát ra nổi tiếng.

Đó là ký ức đầu tiên mà tôi có thể nhớ được trong đời.

Sự khát khô đó cứ thế kéo dài xuyên suốt nửa đầu cuộc đời tôi.

Ba mẹ cho rằng chính vì tôi cứ bám lấy gia đình này mà Phương Ý Hàn mới không thể hồi phục.

Để trừng phạt, họ chuyển hộ khẩu tôi ra riêng.

Rồi đặt tên tôi là “Phương Đa” – chữ “Đa” mang ý nghĩa dư thừa.

Tôi không có phòng riêng, luôn phải ngủ ở phòng khách, quần áo chỉ được mặc lại đồ cũ của Phương Ý Hàn.

Mẹ thỉnh thoảng mềm lòng, chia cho tôi một miếng bánh khi phát đồ ăn vặt.

Phương Ý Hàn sẽ khóc đến ngạt thở, cho đến khi ba mẹ thề thốt sẽ dồn hết tình yêu chỉ cho một mình chị, chị ta mới chịu ngưng.

Tôi học cách bắt chước, cũng khóc, cũng làm loạn – đổi lại chỉ là những cái bạt tai.

Tôi sớm nhận ra, việc tôi có được yêu thương hay không hoàn toàn phụ thuộc vào thái độ của Phương Ý Hàn.

Thế là tôi bắt đầu cố gắng lấy lòng chị ấy.

Đến tuổi vào tiểu học, Phương Ý Hàn yêu cầu ba mẹ cho tôi – người nhỏ hơn hai tuổi – học cùng lớp với chị.

Chị nói với bạn học: tôi là người hầu mà ba mẹ sinh ra cho chị.

Tôi giúp chị mang cặp, chạy vặt, làm trực nhật thay.

Tôi nhẫn nhục cam chịu.

Tôi khao khát được ba mẹ nhìn nhận, được xem là một phần của gia đình.

Ngày lấy tủy mỗi tháng một lần là ngày tôi mong chờ nhất.

Hôm đó ba mẹ sẽ ở bên tôi, dõi theo từng giọt máu chảy vào túi, rồi nâng niu mang cho Phương Ý Hàn như báu vật.

Nửa tiếng được hiện diện trọn vẹn ấy, đủ để tôi gặm nhấm trong những ngày còn lại phải làm người vô hình.

Ngay khi tôi nghĩ mình sẽ phải sống như thế suốt đời, biến cố xảy ra.

Tôi bất ngờ đậu vào lớp chọn của trường trung học trọng điểm cấp tỉnh.

Ngày có kết quả, phụ huynh bạn học hồ hởi vỗ vai ba tôi chúc mừng:

“Con gái út nhà anh giỏi quá! Nhỏ vậy mà đã vào được lớp chọn rồi!”

Ba hơi ngạc nhiên: “Con gái út?”

Ông phải nghĩ một lúc mới nhớ ra tên tôi: “Phương Đa?”

Mẹ kinh ngạc chỉ về phía cổng trường: “Còn treo cả băng-rôn nữa… Phương Đa đứng nhất?”

Họ lần đầu tiên nhìn tôi mà không phải bằng ánh mắt xem tôi là tội nhân hay bịch máu dự phòng.

Ba thậm chí còn xoa đầu tôi, khen tôi làm tốt.

Cơ thể tôi như có dòng điện chạy qua, cảm giác như mình đang mơ.

Đến mức tôi quên mất phải nhìn xem phản ứng của Phương Ý Hàn thế nào.

Nụ cười của ba mẹ vẫn kéo dài đến lúc về nhà, cho tới khi ăn cơm mới phát hiện Phương Ý Hàn biến mất.

Cô ta không trốn. Cô ta đang nằm trong bồn tắm, trên cổ tay là một vết cắt sắp khép miệng.

Cạnh đó là một bức thư tuyệt mệnh.

Trong đó viết: “Phương Đa nói tôi vừa ngu vừa yếu, không xứng làm con của ba mẹ, là ký sinh trùng của gia đình. Tôi nên chết đi.”

Ba bế Phương Ý Hàn lao thẳng ra ngoài, chân mềm nhũn đến mức suýt ngã mấy lần.

Mặt mẹ lập tức tái mét, ấn chặt vết thương cho cô ta, vừa khóc vừa chặn xe cấp cứu.

Họ quá vội, đi ngang qua tôi còn hất tôi ngã xuống cầu thang mà không nhận ra.

Tôi đau đến mức gần như đứng không nổi, nhưng nỗi hoảng loạn quá lớn khiến tôi lảo đảo chạy được đến bệnh viện.

Vừa thấy tôi, mẹ lao đến như gió, cái tát giáng xuống mặt tôi dồn dập đến mức nghẹt thở.

“Nếu Ý Hàn không bệnh, mày căn bản không có tư cách được sinh ra trên đời này!”

“Mày dám nói với con tao những lời đó?!”

Tiếng mẹ gào như kim châm vào tai đang ù đặc của tôi.

Ba túm gáy tôi, xách thẳng vào phòng khám.

Kím lạnh chọc vào cánh tay tôi, sắc mặt ba đen kịt.

“Hồi đó sinh mày chỉ để cứu con tao. Bao năm nay cho mày ăn cho mày mặc, vậy mà mày đối xử với nó như thế à?”

Mất máu quá nhiều khiến đầu tôi choáng váng, không nói nổi.

Tôi hé miệng, nhưng cuối cùng không thể nói ra câu:

“Tôi không làm hại Phương Ý Hàn.”
Và câu: “Con cũng là con của ba mẹ.”

Lấy máu xong, ba mẹ quay lưng bỏ đi không hề do dự.

Tôi vì sốc mà lên cơn sốt cao, cảm giác khát khô quen thuộc lại tràn đến.