Làng chúng tôi tên là làng Đăng Cao, ban đầu nằm ở một ngọn núi cao hiểm trở, địa thế hiểm nghèo, gần như không có đường nối xuống chân núi, cuộc sống cực kỳ khép kín.

Sau này nhà nước cho di dời, xây dựng làng mới ở vùng đất bằng dưới chân núi, cả làng đều chuyển xuống, căn nhà cũ dần dần bị bỏ hoang.

Căn nhà cũ mà bà nội nhắc đến trong di chúc, không phải là nhà mới dưới núi, mà là ngôi nhà cũ trên đỉnh núi.

Ngôi nhà đó ít nhất đã mấy chục năm, lâu ngày không được tu sửa, mấy người chúng tôi vào trong, rất có thể do tiếng bước chân tạo ra cộng hưởng, xà nhà vốn đã mục nát nên mới đổ sập.

Lần này, vì chúng tôi đã biết trước, chỉ cần cẩn thận một chút, nhất định sẽ không dẫm lại vết xe đổ.

Luật sư Trần nói, di chúc có thời hạn hiệu lực.

Chúng tôi buộc phải lấy được di sản trong vòng ba ngày.

Rời khỏi nhà, ba mẹ con tôi lập tức đến trung tâm thương mại mua sắm một lượt, gom một đống thiết bị bảo hộ chuyên dụng.

Mũ bảo hiểm, áo giáp bảo hộ, dây an toàn, xẻng quân dụng…

Cả nhà ba người trang bị đầy đủ tiến vào làng, người không biết còn tưởng tụi tôi đi đào mộ.

Giống như kiếp trước, rất nhanh chúng tôi đã đến được cổng căn nhà cũ.

Căn nhà cũ trên đỉnh núi lặng lẽ đứng giữa ánh hoàng hôn, so với trong ký ức còn đổ nát hơn.

Tường viện sập mất một nửa, gạch đá vỡ vụn ngập trong cỏ dại, cánh cửa gỗ mục nát nghiêng nghiêng khó nhọc treo trên khung.

Cây mơ già trong sân đã chết khô từ lâu, cành khô trụi lủi vươn về phía bầu trời tối dần một cách hung dữ.

Phía sau lưng, từng hồi chim kêu khàn đục vang lên.

Tôi hồi hộp nuốt nước bọt, nắm chặt tay ba.

“Ba—”

10

Ba tôi vỗ đầu tôi trấn an.

“Thanh Thanh, con với mẹ đợi ở đây, ba vào trước xem sao.”

Ba tôi không lỗ mãng xông vào như kiếp trước,

Mà trước tiên tìm một cây gậy to, mạnh tay đập cánh cửa gỗ.

“Rầm”—cánh cửa mục nát đổ ập xuống đất, bụi bay mù mịt.

Ba tôi lùi lại mấy bước, ném vài tảng đá lớn vào tường phía trong.

“Bịch! Bịch! Bịch!”

Đá nện vào nền và tường đầy mạng nhện bụi bặm, vang lên tiếng trầm đục rồi lăn vào góc nhà.

Ngôi nhà không hề rung chuyển, thậm chí không rơi lấy một mảnh ngói, vững chắc đến kỳ lạ, hoàn toàn trái ngược với vẻ ngoài mục nát của nó.

Ba tôi thở phào.

“Căn nhà này chắc không dễ sập đâu.”

Ông vỗ vỗ chiếc mũ bảo hộ trên trán, cười nói: “Mà có sập thì cũng không sao, ba chắc chắn chạy ra được.”

Nói xong, ông xách theo xẻng quân dụng, thận trọng bước vào trong.

Tôi và mẹ chờ đợi lo lắng ở cửa.

Trời mỗi lúc một tối, bên trong vẫn hoàn toàn yên lặng.

Mẹ tôi gọi to tên ba: “Phú Dân! Phú Dân—”

Sân vắng lặng như tờ, chỉ có tiếng gió thổi qua cỏ dại xào xạc, chẳng ai đáp lại.

Thời gian từng phút từng giây trôi qua, mặt mẹ tôi càng lúc càng trắng bệch.

“Thanh Thanh, con đừng chạy lung tung, đợi ở đây!”

Bà nói xong, không đợi tôi phản ứng, đã lao vội vào cánh cửa tối om.

“Mẹ!”

Tôi cố nắm lấy bà, nhưng chỉ túm được một luồng gió mang theo sự gấp gáp.

Trong sân chỉ còn lại mình tôi.

Cây khô, cỏ hoang, tường đổ nát.

Và căn nhà cổ âm u chết lặng ngay trước mắt.

11

Tôi bắt đầu thấy sợ, bật đèn pin trong tay.

Quét một vòng quanh căn nhà.

Đúng lúc đó, tôi thấy trên cửa sổ tầng hai, một bóng trắng vụt qua.

Ba tôi mặc áo khoác thể thao xám, mẹ tôi mặc hoodie màu be, cả hai đều khoác áo giáp bảo hộ xanh đen.

Không phải họ!

Tim tôi chợt siết lại.

“Ba! Mẹ! Trong nhà còn có người!”

Tôi gọi liên tiếp mấy tiếng, nhưng trong nhà không ai trả lời. Tôi không thể chần chừ thêm, nắm chặt đèn pin lao vào trong.

“Ba—”

Gần như ngay khoảnh khắc tôi đặt chân vào nhà, tiếng gỗ mục vỡ nát giống hệt kiếp trước chợt vang lên!

Bụi bay mù mịt, ngói vỡ gỗ gãy ào ào đổ xuống như mưa!

Cảnh cuối cùng tôi thấy là xà nhà to tướng lao thẳng xuống đầu, và một màn đen kịt nuốt chửng tất cả…

Tôi mở mắt ra.

Bác cả và chú út đang ngồi trên ghế sa lông thở dài.

“Chú chết kiểu gì thế?”

Mặt bác cả nhăn như khổ qua.

“Tôi còn chẳng dám ngồi xe, cố tình đi bộ lên núi, ai ngờ trên núi lăn xuống một tảng đá to tổ bố!”

Chú út mặt trắng bệch ôm ngực.

“Tôi gặp con gấu hoang! Một tát nó vả bay nửa mặt tôi!”

“Xì—”