Kiếp trước, đúng ngày giỗ thứ mười lăm của mẫu thân, ta từng tìm thấy trong thư phòng một bức thư họa do Viên Mão vẽ – vẽ quê hương hắn.
Viên Mão là một trong những mưu sĩ của ông ngoại, chính là người dâng thư chứng minh Giang Thượng thư thông địch lên phụ thân ta, nhờ vậy mà thoát chết.
Sau khi phủ Thượng thư bị diệt, hắn cũng biệt vô tăm tích.
Ta hao tâm khổ tứ truy tìm tung tích hắn, muốn hỏi rõ: hắn lấy đâu ra bức thư kia?
Vì để một lần nữa lấy được bức họa kia – thứ có thể giúp ta tìm đến quê nhà của Viên Mão, ta cố tình chọn ngày hôm nay, giờ khắc này, lặp lại tất cả, chuốc say phụ thân.
Tại vị trí y như kiếp trước, ta tìm thấy cuộn tranh quen thuộc, mở ra mừng rỡ, song nội dung lại khác hẳn với bức tranh của đời trước.
Đã mười tám năm trôi qua kể từ lần ta nhìn thấy bức tranh đó, nhiều chi tiết mơ hồ, ta mới định ngắm kỹ thêm một lượt…
Nhưng ta dám chắc, bức họa này tuyệt chẳng phải là bức của kiếp trước!
Bức họa kiếp trước là sa mạc Gobi, cát vàng, ốc đảo.
Còn lần này, lại là trùng điệp núi non, mây khói lượn lờ, rừng rậm um tùm.
Duy chỉ có đề thơ vẫn y nguyên — Tâm ta hướng về, chỉ có cố hương.
Chương 6
Ta ngắm bức họa cố hương ấy hết lần này đến lần khác, hòng khắc ghi từng chi tiết vào tâm trí.
Gọi tiểu đồng đến hầu hạ phụ thân, ta liền hồi viện của mình, tranh thủ từng khắc dựa theo ký ức mà phục họa lại bức tranh kia.
Ta nằm nghiêng nơi tháp, đặt bút lông giữa môi mũi, lặng lẽ nhìn bức họa đang hong khô trước mắt mà thất thần.
Kiếp trước, từ lúc cầm được bức họa cố hương, ta đã bị Lục Minh Vọng dây dưa hai năm, mãi đến khi hắn một kiếm tiễn ta sang đời này.
Cũng chẳng rõ lúc hắn sát ta, Tống Cẩn đang làm gì.
Nói đến mới nhớ, từ khi nàng gả cho tân quan Lục Minh Vọng, liền như đã chết trong khuê viện, chẳng nghe được tin tức chi nữa.
Nữ nhi xuất giá làm thê, đại khái số mệnh là như vậy.
Ngày kế, ta dẫn Tống Cẩn đến Quý viện.
Giới thiệu nàng là nhị muội của ta xong, bọn người trong viện liền khách khí với nàng vài phần.
Ta bảo rõ với mọi người trong viện: từ nay trở đi, việc trong viện sẽ do Tống Cẩn thay ta xử lý, nếu có chuyện gì, có thể đến tìm nàng.
Lại dặn Tống Cẩn, mọi khoản thu chi trong viện, đều phải ghi lại rành rẽ, không được bỏ sót.
Thấy ta mang Tống Cẩn ra ngoài, mà một mình trở về phủ, Tuyên di nương cứ cách một hai ngày lại thêu khăn tay, hầm canh cá đưa đến.
Ánh mắt đầy vẻ dè dặt thăm dò.
Ta buồn cười nói: “Tuyên di, ngày mai ta để nhị muội hồi phủ một chuyến, nếu có điều gì khúc mắc, người cứ hỏi thẳng nàng là được.”
Tống Cẩn ở phủ nửa ngày, ăn cơm trưa cùng Tuyên di nương xong liền hồi viện.
Tuyên di nương vẫn vẻ mặt u sầu, như thể nghĩ mãi chẳng ra điều chi.
Ta trêu chọc: “Tuyên di, chẳng lẽ chẳng hỏi ra được điều gì từ nhị muội sao?”
Tuyên di nương vung khăn tay, oán thán:
“Cái nha đầu ấy, chẳng nói được câu nào cho trọn vẹn. Chỉ bảo sống ổn, bản thân vui vẻ, lại còn bảo ta đừng hỏi nhiều, nói biết nhiều thì bất lợi!”
“Coi như uổng công ta nuôi lớn con bé!”
Miệng nàng lèm bèm than trách, nhưng nét mặt lại rạng rỡ tươi cười.
“Cô nương, đa tạ người.”
“Cẩn nhi có thể làm điều mình yêu thích thì tốt rồi, có gả hay không, cũng chẳng phải chuyện gì trọng yếu.”
Chương 7
Nửa tháng sau, ta hỏi Tống Cẩn xem việc xử lý Quý viện thế nào rồi.
Nàng dâng sổ sách lên, trình bày rõ ràng.
Mạch lạc rành mạch, việc nào ra việc nấy.
Song ta muốn biết, không chỉ là như thế.
“Tống Cẩn, người trong viện ra sao?”
Nàng ngẩng đầu nhìn ta, trong mắt phản chiếu ánh nhìn dò xét của ta.
Nàng liền nói thẳng:
“Trương Lệnh Thân, là kẻ thô lỗ, trong mười ngày giao cho ta năm lượng bạc, thật sự khả nghi.”
Dân thường, một tháng có được một lượng bạc đã là hiếm thấy.
“Nhậm Liêm, ưa vẽ tranh. Ta đã xem qua tranh hắn, vô cớ khiến người sinh cảm u uất, cũng rất đáng nghi.”