Về phần thích khách ám sát Ôn Linh, theo lời Tạ Thừa Chu kể, thì cũng là tay chân của Dự vương.
Thánh thượng luận công ban thưởng, ta và Đỗ Nguyên Cảnh đều được phong là nhất công.
Phụ thân ta trong đám đồng liêu khoe khoang không ngớt:
“Con gái ta quả thực là nữ trung hào kiệt, không thua gì đấng nam nhi!”
Ta thì hơi chột dạ.
Bởi khi đó xuất phủ, ta chỉ muốn đi tìm Tạ Thừa Chu, ai ngờ lại lập được công trạng lớn lao đến vậy.
Tạ Thừa Chu cũng tán thưởng:
“A Oản thật thông minh, gan dạ hơn người.”
Ta nghe xong vui lắm.
Chỉ là mấy ngày gần đây, chàng rất ít tới tìm ta.
Ngược lại, chàng thường xuyên lui tới phủ thái sư, ta không ít lần bắt gặp chàng cùng Ôn Linh đứng cạnh nhau.
Mỗi lần ta tìm đến, Tạ Thừa Chu luôn nói chuyện gì đó liên quan đến phủ thái sư.
Đầu óc ta cứ ong ong cả lên — cảm giác chàng đang nghĩ đến Ôn Linh.
Thậm chí ta còn nghe được lời đồn, rằng Ôn thái sư có ý gả nữ nhi cho Tạ gia, mà Tạ Thừa Chu năm xưa cứu mạng Ôn Linh, nên được hết sức coi trọng.
Ta nghe mà lòng thấy trống trải, chẳng rõ vì sao lại buồn.
Ta không rõ bản thân đang buồn chuyện gì, chỉ biết chẳng thể nào vui lên nổi.
Ôn Linh là kinh thành đệ nhất mỹ nhân.
Đừng nói Tạ Thừa Chu động lòng, ngay cả ta cũng yêu thích dung mạo ấy.
Có vẻ như Đỗ Nguyên Cảnh nhìn ra tâm sự trong lòng ta.
Hắn đưa ta cưỡi ngựa, chèo thuyền, lại rủ ta uống rượu thưởng trăng.
Hai ta còn cùng nhau trèo lên tòa lâu cao nhất trong thành.
Khi ánh trăng tròn treo lơ lửng trên cao, lòng ta cũng dần dần thảnh thơi.
Ta ngẩng đầu ngắm trăng, bỗng dưng mở miệng hỏi không đầu không đuôi:
“Đỗ Nguyên Cảnh, chàng có thích Ôn Linh không?”
Tạ Thừa Chu thích Ôn Linh.
Ta cũng thích.
Ai ai cũng thích.
Hắn bị ta hỏi mà thoáng sững sờ, rồi bật cười khẽ:
“Nàng ấy không phải ánh trăng trong lòng ta, ta vì cớ gì phải thích?”
Đỗ Nguyên Cảnh là kinh thành đệ nhất tài tử, mỗi lời nói ra đều văn nhã khó hiểu, khiến ta phải ngẫm hồi lâu mới hiểu rõ.
Hắn nhìn ta, mỉm cười dịu dàng hỏi:
“A Oản, nàng có thích trăng không?”
“Thích chứ.”
“Người ta yêu chính là minh nguyệt trong lòng, là ánh sáng trắng thuần khiết không thể thay thế. Trăng trên trời thì có thể thấy luôn, nhưng minh nguyệt nơi tâm chỉ có một.”
Ồ… thì ra, với Tạ Thừa Chu, Ôn Linh chính là bạch nguyệt quang trong lòng.
Ta lại hỏi Đỗ Nguyên Cảnh:
“Thế chàng có bạch nguyệt quang không?”
Hắn nhìn ta, dưới ánh trăng rọi xuống, một thân áo dài xanh nhạt, tay cầm quạt xếp, ánh mắt như nước:
“A Oản, nàng chính là bạch nguyệt quang trong lòng ta. Ta muốn cưới nàng.”
Lời ấy truyền đến tai phụ thân ta, ông cười ba ngày không ngậm được miệng.
Ông nắm tay Đỗ Nguyên Cảnh, cảm động đến nước mắt nước mũi đầm đìa:
“Đỗ công tử! Lời này nói ra rồi là không được đổi ý đâu đó!”
“Tống tướng quân cứ yên tâm. Tâm ý ta đối với A Oản là thật lòng, cả đời này sẽ không phụ nàng ấy.”
“Tốt, tốt quá! Con bé này ta nuôi mười sáu năm trời, rốt cuộc cũng có người thèm cưới, ta mừng phát khóc đây!”
Ta trợn tròn mắt, thật là… chịu thua phụ thân ta rồi!
Phụ thân lại nhìn ta, cười càng thêm khoái trá:
“Thật là tốt quá! Con bé này tính tình vừa cứng đầu vừa quái đản, suốt ngày đánh nhau gây chuyện, giờ cuối cùng cũng có người chịu cưới, ta phải mau đi dâng hương báo tổ!”
Quá đáng thật rồi! Đây có phải là phụ thân ruột hay không?
Ta sắp thành thân.
Phụ thân rất vui.
Đỗ Nguyên Cảnh cũng rất vui.
Ta… chắc cũng nên cảm thấy vui?
Nhưng dường như, chỉ có Tạ Thừa Chu là không vui.
Ngay lúc Đỗ Nguyên Cảnh chuẩn bị sai người tới cửa cầu thân, Tạ Thừa Chu lại nửa đêm trèo tường vào phủ nhà ta.
Chàng đẩy ta dựa vào tường, đuôi mắt ửng đỏ, hỏi:
“Ngươi thật sự thích Đỗ Nguyên Cảnh? Thật sự muốn gả cho hắn sao?”
Ta có phần mơ hồ — thế nào mới là “thích thật lòng”?
Hắn đối xử với ta rất tốt, những điều Tạ Thừa Chu từng làm cho ta, hắn cũng đều làm được.
Từ lúc Tạ Thừa Chu để tâm tới Ôn Linh, thì mỗi ngày đều là Đỗ Nguyên Cảnh cùng ta ăn ăn uống uống, chơi bời khắp nơi.
Ta khẽ gật đầu — nếu thế cũng gọi là thích, vậy chắc là thích thật.
Tạ Thừa Chu nghe thế, trong mắt thoáng qua một tia u tối, dần dần buông nắm tay đang ép bên vách xuống, lùi lại vài bước:
“Tốt… tốt lắm…”
Chàng thất thần quay người rời đi, bóng lưng trông thật cô liêu.
Vài ngày sau, lão phu nhân nhà họ Đỗ mở yến hội mùa thu, mời các tiểu thư khuê các trong kinh thành tới phủ thưởng hoa, ăn cua, ngâm thơ đối đáp.
Đỗ Nguyên Cảnh vốn định nhân dịp này để ta gặp mặt người nhà.
Ta chẳng hiểu gì về ngâm thơ đối đáp, nhưng ăn cua thì ta rất rành.
Trên bàn bày đầy món ngon mỹ vị, ta tập trung xử lý ba con cua, ăn đến vui vẻ quên trời đất.
Trong bụng thầm tấm tắc: “Đúng là đầu bếp phủ Thái phó lợi hại hơn phủ tướng quân nhiều, sau này gả vào đây, mỗi ngày đều được ăn ngon, thích quá đi mất!”
Bỗng một tiếng nói vang lên, cắt ngang niềm vui của ta:
“Đây chính là cô nương họ Tống mà Đỗ công tử đem lòng yêu mến sao?”
Toàn bộ ánh mắt trong yến tiệc lập tức đổ dồn về phía ta, mà ta… miệng còn đang ngậm một chiếc càng cua!
“A, chẳng phải là tiểu thư phủ Tống tướng quân sao?”
“Người có thể lọt vào mắt xanh của Đỗ công tử hẳn là tài hoa xuất chúng, không biết Tống tiểu thư có thể làm một bài thơ chăng?”
“Đúng đó, ta cũng rất muốn chiêm ngưỡng tài thơ của Tống tiểu thư.”
Mấy vị quý nữ lời nối lời, nhất thời đẩy ta lên làm tâm điểm của yến tiệc.
Ta đành đặt càng cua xuống, lúng túng đứng dậy.
Ánh mắt lão phu nhân nghiêm nghị, mà vài vị quý nữ thì lại mỉm cười đầy ẩn ý.