Ta từ chối ý tốt của triều đình muốn đưa ta hồi kinh an trí, cũng nhẹ nhàng khước từ sự quan tâm của những thuộc hạ cũ.

Ta bắt đầu sống một mình.

Ban đầu, là sống trong mê mờ, ngày tháng chẳng còn ý nghĩa hay điểm tựa.

Trời sáng, trời tối, ăn cơm, đi ngủ.

Gương mặt xung quanh dần trở nên xa lạ, những binh sĩ và gia quyến từng thân thiết gọi ta một tiếng “phu nhân” hoặc là đã bị điều đi nơi khác, hoặc đã già, hoặc đã chết.

Những quân hộ và dân cư mới đến chỉ biết rằng, quả phụ trầm lặng ấy là vợ góa của Cố tướng quân đã tuẫn quốc năm xưa.

Mười năm. Hai mươi năm.

Ta vẫn mang dáng vẻ như cũ.

Người ta bắt đầu thì thầm sau lưng, nói rằng quả phụ của Cố tướng quân bao nhiêu năm qua không hề già đi.

Ánh mắt dò xét ngày một nhiều.

Ta biết, ta nên rời đi rồi.

Ta ngụy tạo một cái chết vì bệnh.

Một mùa đông rét mướt, ta lặng lẽ rời khỏi tiểu thành ấy, mang theo hành lý đơn sơ và chiếc rương chứa bộ giáp, đến một trấn nhỏ hơn ở phương nam.

Ta trở thành một quả phụ tên Lạc nương tử, đi投 thân nhưng không gặp được thân thích, gia cảnh sa sút.

Ta học cách làm sao để tự nhiên hơn khi đóng vai một phụ nhân đang dần già đi — dùng trang điểm, dùng thần thái, dùng bước đi chậm rãi.

Nhưng ta vẫn phải mỗi mấy chục năm lại “chết” một lần, rồi đổi nơi ở, bắt đầu lại từ đầu.

Mỗi lần “chết” và rời đi, đều như một lần lóc da róc thịt, cắt đứt từng chút từng chút liên hệ giữa ta và Cố Thịnh Xuyên, giữa ta và những ký ức còn vương hơi ấm.

Ta từng quay lại kinh thành một lần.

Phủ Hầu sớm đã thay bảng hiệu, tòa đại viện xưa kia nay đã có người họ khác vào ở.

Qua một con phố, ta đứng nhìn rất lâu.

Phụ mẫu, huynh trưởng sớm đã qua đời, ngay cả mộ phần ở đâu cũng không rõ.

Chợ búa phồn hoa hơn xưa, nhưng chẳng còn ai nhận ra ta.

Ta như một hồn ma, lướt qua thế giới từng thật sự có mình tồn tại trong đó.

Sau lần đó, ta dứt hẳn tâm niệm.

Thế gian rộng lớn, ta lại như bèo không rễ, chỉ có thể trôi dạt trong dòng sông thời gian, vô cảm sống qua từng ngày.

3

Lại một mùa mưa dầm phương Nam, ta đã yên ổn sống mấy năm ở trấn nhỏ vừa chuyển đến.

Tiểu viện này yên tĩnh, rất hợp với thân phận “mới góa” của ta.

Một đêm mưa, tiếng gõ cửa dồn dập phá tan sự tĩnh lặng.

Ngoài cửa là một thư sinh trẻ toàn thân ướt sũng, áo xanh dán sát người, lộ rõ vẻ gầy gò, nhếch nhác, nhưng vẫn đứng thẳng người cúi lễ đúng mực:

“Vãn sinh họ Lưu, tên Văn Thanh, lên kinh dự thi, đi lạc đường tại đây, lại gặp mưa cuốn trôi cây cầu phía trước, kính xin phu nhân cho tá túc dưới mái hiên đêm nay, sáng mai sẽ đi ngay.”

Ta vốn định từ chối.

Người quả phụ, lẽ nên tránh điều tiếng.

Nhưng đúng lúc ấy, hắn ngẩng mặt lên.

Dưới mái hiên, ánh đèn vàng lay động chiếu lên gương mặt hắn ——

Tim ta bỗng khựng lại, tay cầm cán đèn lồng suýt chút buông rơi.

Giống.

Giống quá đỗi.

Không phải giống hoàn toàn, thư sinh này có vẻ thư sinh hơn, ánh mắt còn non nớt chưa trải sự đời.

Nhưng dáng xương mày, sống mũi, đặc biệt là đôi mắt trong sáng có thần kia…

Lại giống đến bảy tám phần với gương mặt đã mơ hồ trong ký ức ta, nhưng từng đường nét vẫn như in vào xương tủy.

Là vì năm tháng quá lâu, lâu đến mức ta không còn nhớ rõ mặt mày của Cố Thịnh Xuyên?

Hay là vì cô độc triền miên vô biên, khiến ta sinh ra vọng tưởng, nhìn ai cũng thấy giống chàng?

Như bị ma dẫn lối, ta nghiêng người mở cửa:

“Mưa to, vào đi. Mái hiên ẩm thấp, phòng bên còn trống.”

Lưu Văn Thanh liên tục cảm tạ.

Ta tìm cho hắn bộ áo khô cũ, nấu cho chén nước gừng.

Hắn cư xử rất giữ lễ, ánh mắt chưa từng dừng trên mặt ta quá một cái chớp mắt.

Nhưng đôi lúc trong lời đối đáp, ánh nhìn hắn hiện lên sự chân thành và thông tuệ, khiến ta bỗng thấy lòng mình chao đảo.

Ngày hôm sau mưa vẫn chưa ngớt, con đường quả thật bị chia cắt.

Lưu Văn Thanh đành lưu lại thêm hai ngày. Hắn cảm thấy áy náy, liền tranh việc gánh nước, bổ củi, sửa mái ngói dột trong viện.

Ta đứng bên nhìn hắn, nhìn cánh tay hơi gầy nhưng cố gắng dốc sức khi hắn xắn tay áo, nhìn khóe môi hơi mím lại khi hắn chuyên chú làm việc… Bóng dáng ấy, lại mơ hồ chồng lên hình ảnh người đàn ông dưới ánh nắng Tây Bắc năm nào, người đã dạy ta cưỡi ngựa, vá lều.

Lòng ta bỗng chấn động, vội quay mặt đi, thầm mắng mình hoang đường. Chẳng qua chỉ là một kẻ lữ hành có đôi nét giống người xưa mà thôi.

Khi Lưu Văn Thanh cáo biệt, hắn trịnh trọng tạ ơn và để lại địa chỉ, nói nếu sau này ta gặp khó khăn, có thể viết thư tìm đến hắn.

Tưởng rằng gặp nhau qua đường, rồi sẽ chia tay từ đó.

Nào ngờ mấy tháng sau, hắn thật sự lại xuất hiện trước cửa viện ta, gió bụi đầy người, ánh mắt lộ ra niềm vui không sao che giấu: