Nhưng Kỷ Hoài Nam lại nói:
“Chú Thẩm, ơn nghĩa này không thể trả hết được.”
“Chú từng cứu mẹ cháu một mạng, vậy cháu sẽ chăm sóc Thẩm Thu cả đời.”
Tôi vuốt nhẹ vết thương trên ngón tay.
Chỗ đó đã ngừng chảy máu, nhưng vẫn âm ỉ đau.
Nghĩ lại, thời ấy đúng là còn quá trẻ.
Anh nói vậy, tôi liền tin ngay.
Cứ như con sâu bám dai, không chịu buông tay anh.
Chúng tôi từng bàn với nhau—sau này khi có tiền, sẽ mua một căn nhà nhỏ ở Vinh Thành, vừa tốt nghiệp sẽ kết hôn.
Sống hạnh phúc như bao cặp vợ chồng bình thường khác.
Nhưng dù Kỷ Hoài Nam đối tốt với tôi, anh lại tham vọng sự nghiệp hơn cả.
Năm đó, khi tốt nghiệp, anh vì một dự án mà đi xa cả ngàn cây số.
Những lời hứa năm nào, như cơn gió cuốn đi, không còn giá trị.
Vì công việc bận rộn, mười ngày thì chín ngày không thể liên lạc.
Hiếm hoi có lần gọi được, tôi còn chưa kịp vui mừng—
Thì đã nghe anh nói: “Thẩm Thu, anh định ở lại đây luôn rồi.”
Không có lời xin lỗi, cũng chẳng có chia tay.
Thậm chí một câu giải thích dư thừa cũng không.
Lúc đó, ba tôi đã lớn tuổi, cũng vừa mới nghỉ hưu.
Ông không chịu nổi khi thấy tôi ngày ngày khóc lóc, tiều tụy.
Ông khuyên: “Tình cảm không thể miễn cưỡng, đến lúc nên buông thì hãy buông.”
Nhưng bốn năm yêu nhau, tôi không cam tâm.
Hôm đó, tôi thu dọn hành lý, lập tức lên chuyến tàu đi về phía nam.
Trên đường đi, tôi liên tục nhắn tin cho Kỷ Hoài Nam.
Lải nhải đủ điều, nói rất nhiều.
“Kỷ Hoài Nam, em đến tìm anh rồi.”
“Nên anh có ở lại đó cũng không sao, chúng ta sẽ không chia xa.”
Tôi gửi cho anh thông tin chuyến tàu, thời gian đến ga.
Tôi muốn anh đến. Muốn anh đến đón tôi.
Nhưng anh không đến.
Hôm đó, Giang Thành mưa rất to.
Tôi kéo hành lý, không sao gọi được xe.
Tôi ngồi xổm xuống bên đường, khóc suốt ba tiếng đồng hồ.
Máu chảy từ đùi xuống, từng giọt thấm qua ống quần.
Cơn đau quặn thắt ở bụng khiến tôi choàng tỉnh.
Đó không phải là kỳ kinh. Mà là đứa con của chúng tôi—còn chưa kịp thành hình.
Nó đến mà tôi chẳng hay biết, và rồi lặng lẽ rời đi.
Tôi hoảng hốt ngẩng đầu, mong có ai đó cứu giúp.
Và tôi thấy Kỷ Hoài Nam cầm ô đi tới.
Anh mặc áo khoác dài màu xám đậm, đeo kính gọng vàng—chỉnh tề đến mức không chân thực.
Trên chân tôi là máu, trên người tôi là máu, tay tôi cũng đầy máu.
Tôi cuống cuồng túm lấy tay áo anh.“Con của chúng ta… mất rồi…”
Anh nhìn tôi bình tĩnh, thậm chí có chút bực dọc.“Là ai bảo em đến?”
Ngoài trời mưa như trút nước.Sắc mặt anh lạnh lùng.
Anh hỏi:“Thẩm Thu, ai cho phép em theo đến đây?”
3
Xe buýt tới trạm, tôi thu lại dòng suy nghĩ và xuống xe.
Có giáo viên địa phương phụ trách tiếp đón học sinh, tôi cũng nhẹ nhõm hơn nhiều.
Tạm thời được thảnh thơi, có thể tranh thủ đi chơi đôi chút.
Bạn tôi—Hạ Dao—đến đón, vừa tới đã nhìn thấy Kỷ Tùng đang ôm quả bóng rổ.
“Là con của người phụ nữ kia nhỉ? Nhìn mắt mũi là biết giống ngay.”
Tôi chỉ khẽ gật đầu, coi như thừa nhận.
Hạ Dao thấy tôi dửng dưng như chẳng có chuyện gì, bỗng nổi cáu.
Càng nghĩ càng tức, cô ấy chửi thẳng:
“Cái thằng khốn vô tình bạc nghĩa đó, lúc đầu mày nghĩ gì mà lại đồng ý cưới nó?”
Chuyện này… thật ra cũng không có gì phức tạp.
Sau khi sảy thai, tôi phải nhập viện.
Khi ấy tôi còn quá trẻ, lại vừa mất đi đứa con đầu lòng, trong lòng hoảng loạn.
Một mình chữa lành nơi đất khách cách nhà cả ngàn cây số, thậm chí không dám báo cho ba mẹ biết.
Đúng lúc tôi yếu đuối và cần một điểm tựa nhất, Kỷ Hoài Nam cầu hôn tôi.
Tôi như nắm được cọng rơm cứu mạng, tự thôi miên bản thân rằng: anh ấy không cố ý.
Thôi thì… cưới đi.
Sau khi kết hôn, Kỷ Hoài Nam rất bận.
Hết tiệc tùng rượu chè lại đến xã giao liên miên, không bao giờ dứt.
Tôi đêm nào cũng ngồi chờ bên mâm cơm nguội lạnh.
Ngày qua ngày, tự giày vò trong sự dằn vặt và mỏi mòn.
Việc mang thai lần nữa đến bất ngờ khiến tâm trạng tôi trở nên vô cùng nhạy cảm.
Tinh thần cũng gần như sụp đổ.
Nhưng đúng vào lúc ấy, Kỷ Hoài Nam lại ngoại tình.
Người phụ nữ đó tên là Hứa Tri Ý, không phải đối tác làm ăn, cũng không phải tiểu thư nhà giàu.
Mà là một người phụ nữ mang theo con nhỏ—một góa phụ.
Họ quen nhau trong một tình huống chẳng có gì đứng đắn, tại một phòng bao trong hội sở.
Kỷ Hoài Nam vừa gặp đã yêu.
Chỉ vì cô ta dẫn theo con trai tám tuổi cầu cứu anh—làm anh nhớ đến bản thân khốn khó năm xưa.
Anh như bị mê hoặc, đưa đứa bé đó về nhà.
Nói dối tôi: “Con của bạn anh bị bệnh, ở tạm nhà mình để tĩnh dưỡng.”

